Thứ Năm, 30 tháng 5, 2024

CHUYÊN MỤC HIỂU ĐỂ YÊU - NÊN THÁNH LÀ GÌ?

 

CHUYÊN MỤC HIỂU ĐỂ YÊU

NÊN THÁNH LÀ GÌ?

1.NÊN THÁNH LÀ GÌ?

Nên thánh có nghĩa là nên tốt lành và thánh thiện, mà Thánh thiện theo Từ điển Công giáo phân tích và ghi nhận: “Thánh” là đức hạnh cao; “thiện” là điều lành. “Thánh” trong tiếng Do Thái nguyên bản là “kadash”.  Từ gốc có nghĩa là "cắt, hoặc tách ra." Từ “thánh” có rất nhiều tầng ý nghĩa, nhưng hiểu đơn giản, kadash có nghĩa là “được biệt riêng cho một mục đích cụ thể”. Như thế, “Thánh thiện” là đặc tính của Thiên Chúa, Đấng siêu việt trên mọi loài trần thế. Bên cạnh đó, Thiên Chúa là Đấng Thánh vì Ngài là Tình Yêu nên thánh thiện là sự trọn hảo của đức mến (GLHTCG 1709) và đức mến là linh hồn của sự thánh thiện (GLHTCG 826). Sự thánh thiện của Thiên Chúa được tỏ lộ qua công trình yêu thương tạo dựng và cứu chuộc con người (GLHTCG 2809).

Nói tóm lại, nên thánh là cắt đi những thói quen xấu, tách ra khỏi tình trạng tội lỗi và sống đời sống bình thường theo cách thức và tình yêu phi thường, đó là tìm thánh ý Chúa trong mọi sự, là xin ơn tha thứ và chấp nhận mọi điều xảy đến với mình bằng niềm tin yêu và nụ cười tươi, đồng thời luôn chu toàn bổn phận thường ngày bằng tình yêu được đặt để trong mối tương quan với Chúa cũng như giúp đỡ tha nhân trong niềm vui tươi và hân hoan.  

2.TẠI SAO PHẢI NÊN THÁNH?

Chúng ta phải nên thánh để đáp lại lời mời gọi của Chúa “Hãy nên thánh vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Thánh” (Lv 19, 2). “Các ngươi phải thuộc về Ta, phải thánh thiện, vì Ta, ĐỨC CHÚA, Ta là Đấng Thánh, và Ta đã tách biệt các ngươi ra khỏi các dân để các người thuộc về Ta.” (Lv 20,26). Các con hãy nên trọn lành như Cha của các con ở trên trời là Đấng trọn lành (Mt 5, 48).

Chúng ta phải nên thánh vì đó chính là mục đích của đời sống Kitô hữu. Ắt hẳn khi sống trên trần gian này là chúng ta bước vào cuộc chiến đấu khốc liệt giữa thánh thiện và tội lỗi, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa sự lựa chọn nghiêng về Thiên Chúa và chọn lựa thế gian v.v… vì thế mà “Phải duy trì và kiện toàn sự thánh thiện mà ta đã lãnh nhận” (Lumen Gentium 40).

3.HÀNH ĐỘNG CỤ THỂ ĐỂ NÊN THÁNH

Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận viết trong tập “Đường Hy Vọng” số 814 nhấn mạnh rằng: “Muốn nên thánh, con hãy làm những việc thường, có khi xem ra vô ý nghĩa nhất. Nhưng con đặt vào đó tất cả niềm mến yêu của con”.

Vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta, nên chúng ta được mời gọi hiệp thông vào sự thánh thiện của Ngài qua các bí tích (LG 40). Đồng thời, để nên thánh, chúng ta cần sống theo gương của Chúa Giêsu, sẵn sàng từ bỏ mình và chiến đấu thiêng liêng (GLHTCG 2015), phải đoạn tuyệt và từ bỏ đối với tội lỗi và nhất là phải có đức mến (1 Ga 4, 7).

Như thế, nên thánh là kết quả của những cố gắng, nỗ lực chiến đấu và phấn đấu suốt cuộc đời. Mỗi chúng ta đều được mời gọi để nên thánh vì thế mà chúng ta hãy nên thánh từ ngay bây giờ, trong hoàn cảnh và trong trách nhiệm cụ thể của mỗi người cách đơn sơ, âm thầm và khiêm tốn để xây dựng một vương quốc vĩnh cửu ngay tại trần gian này trong tình yêu, trong sự bình an, trong niềm hạnh phúc và trong sự  công chính.

Thứ Tư, 29 tháng 5, 2024

THUYẾT TRÌNH TRONG CHUYÊN MỤC HIỂU ĐỂ YÊU - KINH MÂN CÔI

 

TẠI SAO PHẢI LẦN HẠT MÂN CÔI?

Hân hoan chào mừng Dì Giám sư cùng Qúy chị em nhà Tiền Vĩnh Thệ đến với buổi thuyết trình ngày hôm nay.

Xin trân trọng giới thiệu đề tài của buổi thuyết trình là “TẠI SAO PHẢI LẦN HẠT MÂN CÔI?

Không để cả nhà mình phải chờ đợi lâu, em xin mạn phép được dẫn nhập: Tháng 10 là Tháng Mân Côi, Giáo hội đã đặt để cho Tháng 10 một ý nghĩa thật tuyệt vời phải không? Với ý nghĩa đó, xin mời cả nhà cùng với em, chúng ta cùng nhau tìm hiểu xem

1.               Kinh Mân Côi là gì?

2.               Tại sao phải lần hạt Mân Côi?

3.          Chúng ta thực hiện việc lần hạt Mân côi ra sao?

 

Còn chần chờ gì nữa, chúng ta cùng đến với phần thứ nhất.

1.Đầu tiên, chúng ta cùng tìm hiểu xem, Kinh Mân Côi là gì nhỉ?

-Kinh Mân côi có thể gọi là Mai Khôi, Môi Khôi, Mân Côi hay Văn Côi v.v… (Mai hoặc Mân hay Môi: nghĩa là hoa hồng, bông hường; Côi hay Khôi: có nghĩa là đá quý).

 

-Chuỗi Mân Côi là chuỗi bông hồng, được tượng trưng bằng 5 chục hạt, mỗi hạt là một kinh Kính Mừng, như những bông hồng kết thành vòng hoa dâng kính Đức Mẹ Maria. Với 150 kinh Kính Mừng là như 150 bông hồng hay 150 thánh vịnh. Vì chuỗi Mân Côi được các tín hữu thời Trung Cổ đọc và coi như tập thánh vịnh về Đức Mẹ, cũng giống như 150 Thánh Vịnh của David trong Kinh Thánh, Giáo Hội đã từng dùng để tạ ơn, chúc tụng và ngợi khen Chúa.

 

-Ngày nay, chuỗi hạt Mân Côi tập trung về tượng chịu nạn, và thế là thánh giá mở đầu và kết thúc chuỗi kinh nguyện của người tín hữu tập trung vào Đức Kitô. Mọi sự đều quy hướng về Người, chính nhờ Người, với Người và mọi sự qua Người, mà mọi danh dự và vinh quang đều qui về Chúa là Cha toàn năng, trong sự hợp nhất của Chúa Thánh Thần.

 

-Ngoài ra, chuỗi hạt Mân Côi còn là một dụng cụ để đếm, cho biết kinh nguyện đang tiến tới chỗ nào, tràng hạt cho thấy con đường liên tục của việc chiêm niệm và của sự hoàn thiện Kitô giáo.

 

Chân phước Batolo Longo đã ví von chuỗi tràng hạt như một “sợi dây xích” ngọt ngào và đầy tình nghĩa tử vì nối kết chúng ta với Thiên Chúa là Cha đầy tình yêu thương, giúp chúng ta hòa nhịp cùng Đức Maria, người “nữ tỳ của Đức Chúa” (Lc 1, 38) cũng như giúp chúng ta nên giống chính Đức Giêsu Kitô, Đấng vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng đã trở thành “người tôi tớ” vì yêu mến chúng ta (Pl 2, 7).

Tràng hạt còn là những mối tương quan, mối dây hiệp thông và tình huynh đệ liên kết tất cả chúng ta trong Đức Kitô.  

2.Tiếp theo, chúng ta cùng tìm hiểu tại sao phải lần hạt Mân Côi?

Chúng ta cần phải lần hạt Kinh Mân Côi vì với cuộc cách mạng 4.0 nổ ra trên khắp toàn cầu, mọi người kết nối với nhau thông qua internet, ai ai cũng có điện thoại thông minh, máy tính, smarphone; đâu đâu cũng có 4G; nhà nhà cũng đều có Wifi giúp con người được cung cấp rất nhiều thông tin về mọi lãnh vực cũng như mở rộng mối quan hệ rộng lớn trên khắp thế giới. Vậy thì, Kinh Mân Côi cũng chính là lời kinh kết nối, giúp chúng ta kết nối với Đức Trinh Nữ Maria, với anh cả Giêsu và kết nối chúng ta với nhau, mở rộng mối quan hệ khăng khít.

a. Chúng ta cùng kết nối với Đức Maria nhé:

-Khi lần chuỗi đọc Kinh Kính Mừng, chúng ta được nối kết với Đức Maria và mối quan hệ của chúng ta với Mẹ Maria như tình mẫu tử qua biến cố sứ thần Gabriel truyền tin và lời thưa xin vâng của Đức Maria: “Mừng vui lên hỡi Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng Bà”. Chứng tỏ một điều rất rõ ràng rằng: Mẹ được tràn đầy ân sủng và Mẹ luôn luôn có Thiên Chúa ở cùng. Nên vì thế mà:

·       Không có giây phút nào mà Mẹ không có Thiên Chúa với mình.

·       Không có giây phút nào mà Mẹ không trọn vẹn thuộc về Chúa.

·       Không có bất cứ dấu vết tội lỗi chen vào giữa Mẹ và Thiên Chúa.

-Là một tâm hồn luôn luôn nghiền ngẫm Kinh thánh, chắc hẳn Đức Maria luôn suy đi ngẫm nhớ lại Lời Chúa.

-Đọc Kinh Mân Côi là kết nối hai chiều đi đi về về giữa Đức Maria xuống với con người và giữa con người lên với Đức Maria, cách tự nhiên như tình mẫu tử như chính tình mẫu tử của Mẹ và anh cả Giêsu.

b. Tiếp theo, chúng ta cùng kết nối với Chúa Giêsu:

-Khi lần chuỗi đọc kinh Kính Mừng, chúng ta được nối kết với Chúa Giêsu.

-Điều huyền diệu làm cho chuỗi Mân Côi hữu hiệu là khi đọc, chúng ta vừa cầu nguyện vừa suy niệm. Kinh Lạy Cha dâng lên Chúa Cha, Kinh Kính Mừng dâng lên Đức Maria và Kinh Sáng Danh dâng lên Thiên Chúa Ba Ngôi.

àNhững tâm tình suy niệm ấy, là một bản tóm tắt gọn gàng, dễ nhớ về những biến cố quan trọng trong cuộc đời Chúa Cứu Thế, tất cả đều hướng về Chúa Giêsu Kitô qua các mầu nhiệm của Phúc Âm.

-Chuỗi Mân Côi là những bông hồng đẹp được tượng trưng bằng các kinh Kính Mừng để tôn vinh Người. Đức Mẹ đã có mặt trong cuộc đời Chúa Cứu Thế từ những giây phút đầu tiên cho đến những phút giây cuối cùng.

Vì thế, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói “Kinh Mân Côi không thay thế việc đọc Kinh Thánh, Lectio Divina; trái lại, Kinh Mân Côi giả định trước và cổ võ việc đọc Kinh Thánh. Trong Kinh Mân Côi, chúng ta cầu xin Mẹ giúp chúng ta trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu mỗi ngày một hơn. Khi suy ngẫm về Kinh Mân Côi, chúng ta bước vào trường học của Đức Maria để Mẹ dạy chúng ta về Chúa Giêsu vì Mẹ đã nuôi dưỡng Chúa Giêsu, đồng hành với Chúa Giêsu và cùng chịu khổ với Chúa Giêsu dưới cây thánh giá”.

Các mầu nhiệm Vui, Sáng, Thương, Mừng, hòa quyện trong cuộc đời dương thế của Chúa Giêsu. Chuỗi Mân Côi lần lượt diễn tả:

– Mầu nhiệm Vui: nhịp bước với sự kiện Thiên thần truyền tin, Đức Mẹ đi thăm viếng bà Elisabeth, mầu nhiệm Nhập thể, Đức Mẹ dâng Đức Chúa Giêsu cũng như tìm được Chúa khi thất lạc.

– Mầu nhiệm Sáng: nhịp bước với các sứ vụ công khai của Chúa Giêsu như là Ngài chịu phép rửa, Ngài dự tiệc cưới Cana, Ngài rao giảng Tin Mừng, Ngài biến hình trên núi Tarbo và Ngài thiết lập Bí tích Thánh Thể.

– Mầu nhiệm Thương: nhịp bước với những nỗi khổ đau trong cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu.

– Mầu nhiệm Mừng: nhịp bước với vinh quang Phục sinh của Đức Kitô.

Chuỗi Mân Côi là quà tặng quí giá mà Thiên Chúa và Đức Mẹ trao cho chúng ta.

Người ta gọi chuỗi Mân Côi là kinh nguyện của người bình dân vì chính các mầu nhiệm của kinh Mân Côi được gọi là cuốn sách Phúc Âm rút gọn của người bình dân vì cứ 10 Kinh Kính mừng lại suy gẫm về một mầu nhiệm mùa Vui, Sáng, Thương, Mừng.

c. Sau cùng, Kinh mân Côi kết nối với mọi người với nhau

-Thật vậy, khi đọc kinh Mân Côi mỗi người chúng ta được kết nối với Đức Maria và với Đức Kitô, từ đó được hiệp thông với mọi tín hữu.

-Kinh Mân Côi là lời kinh phổ cập, đó là kinh của mọi tín hữu. Ai cũng đọc được, từ người trẻ cho đến người già, người thông thái cũng như người ít học, người giàu hay người nghèo, người khỏe mạnh cũng như người đau yếu, khi vui cũng như lúc buồn, khi làm việc cũng như lúc nghỉ ngơi.

-Kinh Mân Côi có thể đọc được ở bất cứ đâu hay trong hoàn cảnh nào, ở nhà thờ, ở nhà mình, ở ngoài đường, trong nơi yên lặng hay giữa chốn ồn ào náo động và nhất là đọc chung với nhau trong gia đình hay những khi có đông người Công Giáo họp nhau lại.

-Đọc Kinh Mân Côi với ý thức là mình đang làm một công việc có chất Tin Mừng, được Giáo Hội công nhận và nhiệt tình khuyến khích, một công việc tóm tắt lại tất cả cuộc đời Chúa Cứu Thế.

-Cầu nguyện với Đức Mẹ bằng lời kinh Mân Côi, chúng ta được kết nối với Chúa Giêsu là nguồn mạch ban sự sống.

·       Bóng đèn muốn được toả sáng thì phải được nối kết với nguồn điện.

·       Cành nho muốn được trổ sinh hoa trái thì phải được tháp nhập vào thân nho.

·       Bàn tay muốn sống còn và hoạt động thì phải liên kết với cơ thể.

·       Con người muốn được sống dồi dào và vĩnh cửu thì phải nối kết với cội nguồn là Chúa Giêsu.

-Chuỗi Mân Côi mang đến sự tuyệt vời cho con người.

·       Ai yếu đuối, Kinh Mân Côi đem lại sức mạnh;

·       ai tội lỗi, Kinh Mân Côi dắt về ơn thánh;

·       ai bất hạnh, Kinh Mân Côi giúp bình tĩnh tìm ra hướng lối vươn lên;

·       ai khô khan, Kinh Mân Côi giúp khám phá ra những ánh lửa vẫn còn ẩn giấu trong những đám tro tưởng như nguội lạnh.

-Kinh Mân Côi là lời kinh kết nối mỗi người với Chúa Giêsu, với Mẹ Maria và với nhau. Đó là kinh nguyện phổ biến, vừa dễ đọc vừa dễ cầu nguyện mà lại mang lại nhiều ích lợi cho linh hồn.

3. Sau cùng, chúng ta đáp lại lời mời gọi lần hạt Mân côi ra sao?

Chúng ta đáp lại lời mời gọi lần hạt Kinh Mân Côi theo lời nhắn nhủ của Mẹ Maria trong lần hiện ra lần cuối cùng tại Fatima đó là “hãy siêng năng lần hạt Mân Côi”. Với lời kêu mời khẩn thiết ấy đã lôi kéo con người tới trọng tâm của Tin Mừng, Mẹ Fatima là Mẹ Mân Côi. Mân Côi chính là hoa hồng, là bông hồng đẹp, viên ngọc quí. Bằng chuỗi Mân Côi, Hội Thánh trở thành một vườn hồng mênh mông, hương thơm sắc đẹp, dâng lên Mẹ hiền. Bằng cuộc sống hàng ngày, mỗi Kitô Hữu kết dệt nên những bông hoa thiêng liêng dâng kính Mẹ. Với ơn Mẹ, cuộc sống mọi người sẽ toả hương khoe sắc nhân đức và mang đến cho đời hòa bình và bình an.

Bài thuyết trình ngày hôm nay đến đây xin kết thúc, xin mời cả nhà cùng với em, chúng mình bước vào cuộc sống hằng ngày bằng việc siêng năng lần chuỗi Mân Côi nhé! Chúc nhà mình luôn có Chúa ở cùng như Mẹ Maria cũng tràn đầy ân sủng Chúa.

Chủ Nhật, 19 tháng 5, 2024

THUYẾT TRÌNH - Ý NGHĨA TU PHỤC DÒNG ĐA MINH

 

THUYẾT TRÌNH - Ý NGHĨA TU PHỤC DÒNG ĐA MINH

Hiến pháp 64: Tu phục là dấu chỉ sự thánh hiến và chứng tá của sự khó nghèo, nên chị em hãy mặc tu phục theo luật định.

Ngay khi vào Nhà tập, thì đã được các chị phát cho 1 tờ Catalogue khổ A5 nói về ý nghĩa của tu phục Dòng Đa Minh

-Tiểu sử: một lần kia, Thánh Reginaldo lâm trọng bệnh, thập tử nhất sinh. Cha Thánh Đa Minh xin Mẹ Maria cứu giúp người con của Mẹ và Mẹ đã nhận lời chữa cho Thánh Reginaldo khỏi bệnh cách lạ lùng. Đồng thời, Mẹ cũng trao cho Cha Thánh Đa Minh mẫu áo mà tu sĩ Đa Minh mặc đến ngày hôm nay, nhưng tu phục cũng thay đổi đôi chút.

*Tu phục Đa Minh với hai màu chủ đạo là đen và trắng:

-Màu trắng tượng trưng cho sự tinh tuyền, trong trắng của chân lý và đơn sơ, thanh tịnh, thanh tịnh cần được bảo vệ chở che của chút màu đen trong sự khổ chế hãm mình.

-Màu đen tượng trưng cho đức khiêm nhường, sự hy sinh, hãm mình, từ bỏ.

Như vậy Tu phục của tu sĩ Đa Minh nói lên sự đơn sơ hãm mình để thuộc về Thiên Chúa.

Tu sĩ mặc áo dòng là dấu chỉ thuộc trọn vẹn về Chúa, là người nhà Chúa mặc lấy Đức Kitô.

Tu phục có một giá trị tông đồ. Đưa tay lên nhận áo dòng, nghĩa là tôi chấp nhận phục vụ, không thoái lui khi gặp khó khăn. Ai khát khao rao giảng Lời Chúa, thì người ấy cũng muốn tự triệt đường thoái lui để không còn dịp quay trở lại. Nếu một khi không dấn thân hết mình, thì kẻ ấy dễ có nguy cơ phản bội [Dì Tổng]

Bộ áo dòng Đa Minh gồm: áo dài trắng tới gót chân chỉ sự trong trắng của linh hồn. Một dây lưng đen chỉ sự hãm dẹp tư dục và các đam mê. Cỗ tràng hạt đen và dây lưng là vũ khí chính Đức Mẹ đã trao cho Thánh Tổ phụ để thắng bè rối Albizense. Áo phép trắng trước ngực và sau lưng là chính áo Đức Mẹ đã trao cho Dòng khi hiện ra với thánh Reginaldo, một trong các tu sĩ tiên khởi của Dòng khi Đức Mẹ nói: “Này là áo của con”. Khăn lúp trắng của tập sinh chỉ sự trong trắng. Khăn lúp đen của chị khấn tượng trưng cho sự chết đi cho tội, cởi bỏ con người cũ và mặc lấy con người mới khiêm nhường hiền hậu. Áo choàng đen phủ toàn bộ chỉ sự hy sinh hãm mình như thành lũy bao bọc sự trong trắng và đức hạnh của người nữ tu. 

Người tu sĩ được trang bị đủ mọi thứ giáp binh để lâm chiến và chuẩn bị giống như Thánh Phaolô gửi cho tín hữu Êphêxô 6, 10-24: “lưng thắt đai là chân lý, mình mặc áo giáp là sự công chính, chân đi giày là lòng hăng say loan báo tin mừng bình an; hãy luôn cầm khiên mộc là đức tin, hãy đội mũ chiến là ơn cứu độ và cầm gươm của Thần Khí ban cho, tức là Lời Thiên Chúa”. Như thế là đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh vì:

Áo Dòng của chúng ta có

·     đai là chân lý,

·     mình mặc áo giáp – áo Dòng là sự công chính,

·     chân mình đi giày là lòng hăng say loan báo Tin Mừng bình an

·     cầm khiên mộc – đức tin: logo Dòng chúng ta có hình chiếc khiên, khiên che thuẫn đỡ, cầm lòng cầm trí, cậy trông phó thác tin tưởng vào Mẹ Hội Dòng như trong lời khấn hứa: “con xin phó thác đời con cho Hội Dòng, để nhờ ơn Chúa Thánh Linh, sự phù trợ của Đức Mẹ Maria Mân Côi, Cha Thánh Đa Minh và Các Thánh, con quyết tâm cùng với chị em, sống đức ái hoàn hảo theo ơn gọi Đa Minh”. [câu chuyện lạc đà mẹ.. dù cho hiểm nguy và vùi dập của cuộc đời]

·     Mũ chiến đội đầu, khăn lúp – ơn cứu độ: mão gai, triều thiên vinh quang trong ngày sau hết

·     Cầm gươm: là tràng hạt là cuốn Tin Mừng rút gọn mà Thần Khí ban cho, tức là Lời Thiên Chúa.

vậy thì áo dòng Đa Minh gồm có những phần sau đây: 

1. Áo Dòng trắng- Tunica: hay còn được gọi là áo chùng màu trắng, áo dài. Áo chùng màu trắng từ vai đến gót chân, thời xưa, áo làm bằng len không nhuộm, nghĩa là hầu như mới ra lò thì còn giống y như lông cừu, chưa hề được chải chuốt, là y phục khó nghèo nhất của người rao giảng thời ấy, một con người từ bỏ tất cả để theo Chúa. Màu trắng cũng là màu đầu tiên loan báo sự Phục sinh của Chúa.Giống như áo dài của Chúa Giêsu, [các linh mục hay các thầy chủng sinh có chiếc áo chùng thâm, còn tu sĩ Đa Minh chúng ta có áo chùng trắng] và tượng trưng cho đức ái mà chúng ta phải luôn luôn mặc vào mình, không được cởi bỏ cả khi lên giường ngủ.

2.Áo phép – Scapulare màu trắng: tức áo các phép hay là 2 câu đối là tấm vải che, gồm có 2 vạt: 1 che trước ngực và 1 sau lưng, dài cho đến đầu gối, che vai nhắc cho chúng ta kiên nhẫn gánh vác những nhọc nhằn. Vào thời xa xưa, mỗi lần hôn kính được một ơn tiểu xá, nhưng hiện nay bất tiện nên không còn,

Truyền thuyết cho rằng: do ý muốn của Đức Mẹ với câu chuyện vào năm 1218, khi Linh mục Reginaldo bị bệnh, sốt, thì được Đức Mẹ hiện ra và chữa lành, và chỉ cho chiếc áo dòng Đa Minh. Năm 1251 Dòng bắt đầu đổi tu phục từ khi Đức Mẹ hiện ra với Lm Reginaldo, cha được Đức Mẹ trao cho áo Scapulare, sau khi lành bệnh, cha đã thuyết phục Cha Thánh Đa Minh mặc ÁO các phép - Scapulare màu trắng, câu chuyện này được lặp đi lặp lại từ đời này đến đời nọ và đời kia.

-Áo phép: là bảo chứng Đức Mẹ dành cho con cái của Cha Thánh Đa Minh, nói lên ý nghĩa của việc được Đức Mẹ che chở, áo phép như là mã giáp giúp người tu sĩ thắng vượt những yếu đuối, để sống cuộc đời trinh trong, tín thác vào sự che chở của Mẹ Maria trên bước đường dâng hiến.

*Ghi chú: hôn áo phép, hôn cổ áo phép [chị Thùy Dung chỉ]

3. Đai lưng - Cingulum: chỉ sự hy sinh, hãm mình, không buông theo những đòi hỏi của xác thịt [thắt lưng buộc bụng/ bấm bụng]. Nhắc lại lời dẫn của Chúa: “hãy thắt lưng” cũng như lời của Thánh Phaolô nói về đai của chân lý, tượng trưng cho sự khiết tịnh – khổ chế.

Đai lưng: là sự giao ước kết chặt người tu sĩ với tình yêu Thiên Chúa, nói lên sự gắn kết chặt chẽ tình yêu người tu sĩ với Chúa “Như người ta đeo đai ở lưng, thì Ta, Ta cũng thắt chặt nhà Israel và nhà Giuđa vào Ta” (Gr 13, 11).

Thời xa xưa chiếc đai này còn có công hiệu: dùng để giắt con dao, khăn tay, cái ví. Năm 1625, mới nói đến việc đeo tràng hạt Mân côi.

4. Khăn lúp- Magnificantes linteumThời xưa có miếng mica dài chìa ra phía trước để chỉ nhìn thẳng về phía trước, không nhìn ngang ngó dọc, giữ gìn con mắt. Đàn bà bị coi là đồ dơ, tội lỗi, nên mỗi lần ra đường là phải trùm khăn.

Khăn lúp: như dấu chỉ người nữ tu hoàn toàn thuộc về Đức Kitô là hiền thê của Chúa và hiến thân phục vụ Giáo hội vì ngày tiên khấn, Đức Giám mục trao khăn lúp cho khấn sinh và nói: “Các con hãy nhận lấy khăn lúp này như dấu chỉ các con hoàn toàn tùng phục Chúa Kitô và hiến thân phục vụ Hội Thánh để tỏ từ nay con không còn yêu mến ai, mà chỉ yêu mến một mình Chúa Giêsu” hay nói cách khác, con đội lúp này để che khuất con, không còn nhìn vật thụ tạo nào mà chỉ mong trái tim con sạch hết mọi tình yêu mến không thuộc về Chúa. Chúa muốn trong ngày khấn, khi nữ tu làm bạn trăm năm với Ngài phải trùm khăn lúp.

Khăn lúp: dấu chỉ của hy sinh âm thầm, sự khiêm nhường, che dấu vẻ đẹp của mái tóc và khuôn mặt, buộc gọn tóc và lau khô mồ hôi khi làm việc, diễn tả sự khiêm tốn và thành tâm khi cầu nguyện. Khăn lúp cũng là dấu chứng của sự dâng hiến và hy sinh, khổ hạnh.

mũ chiến của công lý

*đầu trọc – Tonasura: đầu trọc cắt theo hình vòng tròn triều thiên, bắt chước mão gai CGS, tượng trưng cho đức khiêm nhường.

5.Tràng hạt - Rosariumtượng trưng cho vũ khí như trong quân đội, các binh sĩ thời Trung cổ đeo súng, đeo gươm, giắt con dao bên hông trái để chiến đấu khi có sự cố là rút ra được ngay. Thì với Dòng Đa Minh, tràng hạt như là vũ khí thiêng liêng để người nữ tu khi gặp thử thách, gian nan, những bão táp trong cuộc đời hay những cám dỗ thì hãy rút vũ khí ra ngay để chống lại 3 thù là thế gian, ma quỷ và xác thịt, đó là chuỗi Mân Côi bảo vệ đời tu sĩ Đa Minh.

Như thế, tràng hạt nhắc nhở người tu sĩ Đa Minh hãy yêu mến Đức Mẹ, chuyên chăm giảng thuyết trong sứ vụ của mình. Truyền thống Dòng Đa Minh xưa nay luôn nhấn mạnh đến việc sùng kính Đức Mẹ cách đặc biệt nhất là trong việc đọc và truyền bá Kinh Mân Côi.

Tu sĩ Đa Minh đeo 150 hạt vì thời trung cổ, các ẩn sĩ và tu sĩ cầu nguyện bằng 150 thánh vịnh, nên sau này khi có Kinh Mân Côi, Dòng đã lấy 150 kinh thay cho 150 Thánh vịnh để cầu nguyện với Đức Mẹ. Ngoài ra, tràng hạt là vũ khí thiêng liêng của người tu sĩ Đa Minh, là sự cầu nguyện liên lỉ, vừa đi đường vừa cầu nguyện, Cha Thánh Đa Minh với 9 cách cầu nguyện…

*Ghi chú: vừa đi học, vừa lần hạt, vừa trên đường đi sứ vụ vừa lần hạt, vừa đi đường vừa lần hạt, Kinh Sáng và Kinh Chiều có thể thay thế 50 Kinh.

6.Áo choàng- Pallium: Chính nhờ áo choàng của Mẹ Maria ban mà tu sĩ Đa Minh được ở trong áo choàng của Mẹ.

Câu chuyện: khi Cha Thánh Đa Minh cầu nguyện, nhìn lên Đức Mẹ thì thấy có rất nhiều tu sĩ đứng cạnh Mẹ, nhưng Cha Thánh không thấy người con cái nào của Cha. Cha gục xuống khóc nức nở. Mẹ Maria hỏi: “Tại sao con khóc?” Cha Thánh trả lời: “Vì con không thấy một bóng tu sĩ Đa Minh nào!”. Mẹ liền giơ hai cánh tay, thì thấy con cái của Cha Thánh được nép mình, núp trong tà áo, áo choàng của Mẹ.

Vì thế mà chiếc áo choàng đen tượng trưng cho Đức Mẹ che chở người tu sĩ khỏi cạm bẫy của 3 thù: ma quỷ, thế gian và xác thịt, nhắc nhở người tu sĩ sống từ bỏ, nép mình theo kỷ luật tu trì, sống giản dị và phó thác, là bảo chứng cho sự che chở của Mẹ Maria dành cho con cái Cha Thánh Đa Minh là vậy.

7. Giầy – Calceamenta: giày là lòng hăng say loan báo Tin Mừng chống lại chủ trương của Dòng Phanxicô không đi giày nhân danh đức thanh bần.

KẾT:

Những chiếc áo dòng Đa Minh được thay đổi và biến chuyển rất nhiều qua dòng thời gian. Để có được chiếc áo dòng hoàn chỉnh ngày nay. Về chất liệu, ít người còn dùng vải thô để may áo dòng. Về chức năng, áo dòng không còn phải là y phục che thân nữa, nhưng là áo chức khoác lên trên thường phục, cũng giống như các Cha mặc đồ lễ khi cử hành Phụng vụ và được cởi ra khi đã xong việc. Tại VN trước năm 1975 chúng ta mặc áo dòng cách thường xuyên đi nữa, nhưng không ai mặc áo dòng khi lên giường ngủ. Biết bao tu sĩ đã hãnh diện khi mặc chiếc áo dòng này, biết bao vị tử đạo, và vì thế, nhiều anh em khi làm Giáo hoàng, Giám mục vẫn còn quyến luyến với chiếc áo dòng, hai màu trắng đen chứ không vướng theo mốt của hàng giáo chức gì nữa. Dù sao đi nữa, niềm ước nguyện và điều sau chót của người tu sĩ là được mai táng trong chiếc tu phục của mình trong dòng của mình.

*Ghi chú: 4 ĐGH dòng OP

NQ 37 Tu phục

Chị em mặc tu phục trong các trường hợp sau:

1.Mặc đủ tu phục:

a. Bề trên Tổng quyền hay vị đặc ủy, các chị Chứng khấn và các Khấn sinh dịp Tuyên khấn, Ngân – Kim Khánh.

b. Bề trên Tổng quyền trong gnhi thức nhận chức.

c.Chị em qua đời.

2.Mặc tu phục không áo choàng:

a. Khi tham dự Thánh lễ và các giờ kinh Phụng vụ chính.

b. Khi tham dự các nghi lễ của Giáo hội ở ngoài nhà dòng với tính cách đại diện cộng đoàn.

3.Mẫu tu phục theo Phụ lục.

àVì thế mà tu sĩ Đa Minh chúng ta hãy hãnh diện và vinh dự khi được mặc Áo Dòng.

 

TIN MỪNG:

Câu trưng dẫn: “Anh em hãy nhận lấy toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa, để có thể đối phó và đứng vững”.

10 Sau cùng, anh em hãy tìm sức mạnh trong Chúa và trong uy lực toàn năng của Người. 11 Hãy mang toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa, để có thể đứng vững trước những mưu chước của ma quỷ. 12 Vì chúng ta chiến đấu không phải với phàm nhân, nhưng là với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm này, với những thần linh quái ác chốn trời cao. 13 Bởi đó, anh em hãy nhận lấy toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa; như thế, anh em có thể vận dụng toàn lực để đối phó và đứng vững trong ngày đen tối.

14 Vậy hãy đứng vững: lưng thắt đai là chân lý, mình mặc áo giáp là sự công chính, 15 chân đi giày là lòng hăng say loan báo tin mừng bình an; 16 hãy luôn cầm khiên mộc là đức tin, nhờ đó anh em sẽ có thể dập tắt mọi tên lửa của ác thần. 17 Sau cùng, hãy đội mũ chiến là ơn cứu độ và cầm gươm của Thần Khí ban cho, tức là Lời Thiên Chúa.

18 Theo Thần Khí hướng dẫn, anh em hãy dùng mọi lời kinh và mọi tiếng van nài mà cầu nguyện luôn mãi. Để được như vậy, anh em hãy chuyên cần tỉnh thức và cầu xin cho toàn thể dân thánh. 19 Anh em cũng hãy cầu xin cho tôi nữa, để khi tôi mở miệng nói, thì Thiên Chúa ban lời cho tôi, hầu tôi mạnh dạn loan báo mầu nhiệm của Tin Mừng; 20 tôi là sứ giả của Tin Mừng này cả khi tôi đang bị xiềng xích. Anh em hãy cầu xin cho tôi để khi rao giảng Tin Mừng tôi nói năng mạnh dạn, như bổn phận tôi phải nói.

Liên kết với các nguồn tài liệu:

TÌM HIỂU DÒNG ĐA MINH – Cha Phan Tấn Thành

Áo Dòng Tôi Yêu – Dì BTTQ Maria Vũ Thị Chín

Tục hôn áo phép và quỳ Venia – Dòng Đa Minh Tam Hiệp



TÊRÊSA KIỀU DIỄM (TVT)

Thứ Bảy, 18 tháng 5, 2024

BẢN THẢO BÀI THUYẾT TRÌNH Ý NGHĨA ÁO DÒNG

 BẢN THẢO BÀI THUYẾT TRÌNH Ý NGHĨA ÁO DÒNG

BẢN THẢO:

-Áo Dòng Ko Làm Nên Thầy Tu à vậy thầy tu có làm nên chiếc áo dòng?

-BÀI HÁT:

·       TẤM ÁO NÀY CHÚA ĐÃ MẶC CHO CON…

·       TỪNG SỢI TƠ KẾT THÀNH TẤM ÁO…

·       MẶC LẤY CHÚA KITÔ “MẶC ÁO XANH RỒI MẶC ÁO ĐỎ…”

Mặc áo xanh rồi mặc áo đỏ.

Mặc áo nọ, rồi mặc áo kia.

Nhưng em tin rằng em đẹp nhất

Nếu em mặc lấy CHÚA KITÔ

NỮ TỲ CỦA CHÚA

3 VIDEO CÁC DÒNG

-TRÒ CHƠI MẶC ÁO DÒNG: CỦA DÌ ĐIỆP

-ÁO DÀI – ÁO DÒNG – UNIFORM KHI ĐI HỌC, KHI THAM GIA VÀO ĐOÀN THỂ, TẬP THỂ NÀO ĐÓ…

-LIÊN KẾT:

·       BÀI VIẾT CỦA DÌ TỔNG

·       BÀI VIẾT CỦA DÒNG ĐA MINH – CHA PHAN TẤN THÀNH

-MỞ:

1. XUÔI DÒNG LỊCH SỬ à HÌNH ẢNH

2.Ý NGHĨA TU PHỤC – VỚI TỪNG BỘ PHẬN

·       TỤC LỆ HÔN ÁO PHÉP (CÂU ĐỐI) – LIÊN KẾT BÀI VIẾT CỦA DÒNG ĐA MINH TAM HIỆP / ROSA – HÔN CỔ - LÀM DẤU CHỊ THÙY DUNG.

·       KHĂN LÚP: MICA – CHỈ NHÌN THẲNG – LIÊN KẾT: SÁCH NỮ TU THÁNH THIỆN – BÀI HÁT: CON NHẬN KHĂN LÚP NÀY

è MẶC ÁO DÒNG, MẶC LẤY CHÚA KITÔ

 

 

 

 

THUYẾT TRÌNH VỀ ÁO DÒNG ĐA MINH

Từ lâu, Thánh Đa Minh đã quen mặc chiếc áo dài trắng bởi vì Cha thuộc về hàng kinh sĩ Giáo phận Osma, bên ngoài chiếc áo dài trắng, gắn liền với chiếc mũ che đầu, với dây đai thắt lưng, các kinh sĩ mặc thêm áo các phép mà các Cha vẫn mặc khi Chầu Mình Thánh Chúa, khi đi đường họ khoác thêm cappa màu đen, những yếu tố này vẫn còn lưu lại trong tu phục của Dòng Giảng thuyết với một vài sửa đổi chi tiết. Hiến pháp nguyên thủy đã quy định về áo dòng.

-Chiếc áo dòng không làm nên thầy tu, nhưng thục tế cho thấy rằng: áo dòng không những chỉ là phân biệt tu sĩ với người đời mà còn là dấu chỉ phân biệt giữa các dòng tu nữa.

Áo dòng Đa Minh

-  Phải chăng là Thánh Đa Minh đã thiết kế áo dòng hay Đức Mẹ đã cắt may và trao chiếc áo dòng này cho dòng Đa Minh hay có ý nghĩa gì khác? Màu đen và màu trắng có ý nghĩa ntn? Trong tu phục của Dòng Đa Minh thì có những phần nào và có những ưu điểm nào, đặc điểm?

-Từ lâu Thánh Đa Minh đã đã quen mặc chiếc áo dài màu trắng từ khi Ngài thma gia vào hàng kinh sĩ của giáo phận Osma, khi ngài thành lập Dòng, giai đoạn đầu áo dòng của Đa Minh gồm có những phần nào? Và quan trọng ntn? Có ý nghĩa ntn?

1.Giai đoạn đầu tu phục của Dòng Giảng thuyết:

Vào thời thành lập Dòng,

1.áo chùng màu trắng - tunica:

Áo chùng màu trắng từ vai đến gót chân, áo làm bằng len không nhuộm, nghĩa là hầu như mới ra lò thì còn giống y như lông cừu, chưa hề được chải chuốt.

2. chiếc đai da – cinctoria: làm dây thắt lưng, cuốn trên áo trắng để giữ cho gọn, hiến pháp ko nói tới đai lưng nhưng Cha Humbert đã nhắc các cha giáo hãy sửa dạy tập sinh học cách thắt lưng, chiếc đai này còn có công hiệu: dùng để giắt con dao, khăn tay, cái ví. Năm 1625, mới nói đến việc đeo tràng hạt Mân côi. Tổng hội năm 1907, tràng hạt được coi như là thành phần của bộ áo dòng

3. ÁO các phép - Scapulare màu trắng: tấm vải che, áo các phép. Ruyền thuyết cho rằng: do ý muốn của Đức Mẹ. tấm màu trắng thì gồm có 2 vạt che trước ngực và sau lưng, dài cho đến đầu gối, và cái mũ được may liền có chóp nhọn, giống kiểu của dòng Xitô, chỉ khác biệt về màu sắc.

4. Cappa màu đen: được may liền với mũ trùm đầu với hình chóp nhọn. tu sĩ khoác áo cappa trong mùa đông, từ ngày 2/11 đến lễ phục sinh, cũng nhưn khi cử hành vài hy lễ về phụng vụ, khi nghe giải tội, khi ra khỏi tu viện. TK 14, cái mũ được tách rời khỏi 2 tấm vạt màu trắng và khỏi cappa, trở thành 1 mảnh tách biệt, biệt lập

ĐỨC MẸ CAN THIỆP VÀO DÒNG OP

Năm 1218, Khi Linh mục Reginaldo bị bệnh, sốt, thì được Đức Mẹ hiện ra và chữa lành, và chỉ cho chiếc áo dòng Đa Minh. 1245 – 1250, Cha Batolomeo Trento 1290 – 1251 Dòng bắt đầu đổi tu phục từ Đức Mẹ hiện ra với Lm Reginaldo, cha được Đức Mẹ trao cho áo Capulare, sau khi lành bệnh, cha đã thuyết phục cha thánh Đa Minh mặc ÁO các phép - Scapulare màu trắng cậu chuyện này được lặp đi lặp lại từ đời này đến đời nọ và đời kia.

Ý NGHĨA CỦA ÁO DÒNG, MÀU TRẮNG MÀU ĐEN CÓ Ý NGHĨA NTN? NGHĨA ĐEN, NGHĨA BÓNG RA SAO?

1.    NGHĨA ĐEN: Tấm áo là biểu lộ căn tính khó nghèo qua việc sử dụng chất liệu, chất liệu dùng may áo là len thô, không chải chuốt, nếu ko kiếm được len thì dùng loại thô sơ hơn. Hiến pháp cấm anh em không được dùng vải, ngay khi đau ốm vì thời đó, vải thuộc đồ hạng sang, nhà giàu mới sử dụng. Mỗi nơi, qua nhiều quốc gia có các tập tục mặc áo dòng ở đó vì đó việc thích nghi và mất đi vẻ đơn sơ vào hồi thành lập dòng.

2.    NGHĨA BÓNG: TK 13, toàn bộ tu phục gồm 7 phần. Người tu sĩ được trang bị đủ mọi thứ giáp binh để lâm chiến và chuẩn bị giống như Thánh Phaolô gửi cho tín hữu Êphêxô 6, 10-24: “lưng thắt đai là chân lý, mình mặc áo giáp là sự công chính, chân đi giày là lòng hăng say loan báo tin mừng bình an, mũ chiến là ơn cứu độ”, vậy thì áo dòng Đa Minh gồm có 7 phần:

7 mảnh:

1.áo chùng màu trắng - tunica: áo dài. Giống như áo dài của Chúa Giêsu, và tượng trưng cho đức ái mà chúng ta phải luôn luôn mặc vào mình, không được cởi bỏ cả khi lên giường ngủ.

2.Đai lưng - Cingulum: nhắc lại lời dẫn của Chúa: “hãy thắt lưng” cũng như lời của Thánh Phaolô nói về đai của chân lý, tượng trưng cho sự khiết tịnh – khổ chế,

3. Capulare: gắn liền với mũ: vừa che đầu với mũ chiến của công lý, vừa che vai nhắc cho chúng ta kiên nhẫn gánh vác những nhọc nhằn

4. giầy – calceamenta: giày là lòng hăng say loan báo Tin Mừng chống lại chủ trương của Dòng Phanxicô không đi giày nhân danh đức thanh bần . tác giả trưng dẫn nhiều câu Kinh Thánh CƯ và TƯ bảo vệ,

5. Cappa: thuẫn đức tin

6. đầu trọc – tonasura: đầu trọc cắt theo hình vòng tròn triều thiên, bắt chước mão gai CGS, tượng trưng cho đức khiêm nhường.

Bài này tác giả chỉ chú trọng đến 4 mảnh:  hai mảnh Tunica, một cappatium, một cappa…. 4 mảnh tượng trưng cho 4 nhân đức: tấm áo trong tượng trưng cho đức cưỡng chế, tấm áo bên ngoài biểu hiện đức công bằng, scapulare tượng trưng cho đức khôn ngoan, cappa màu đen tượng cho đức mạnh bạo.

*Tu phục Đa Minh với hai màu chủ đạo là đen và trắng:

-Màu trắng tượng trưng cho sự tinh tuyền, trong trắng của chân lý và đơn sơ, thanh tịnh, thanh tịnh cần được bảo vệ chở che của chút màu đen trong sự khổ chế hãm mình.

-Màu đen tượng trưng cho đức khiêm nhường, sự hy sinh, hãm mình, từ bỏ.

Như vậy Tu phục của tu sĩ Đa Minh nói lên sự đơn sơ hảm mình để thuộc về Thiên Chúa.

Ý NGHĨA ÁO DÒNG TỪ GIỮA TK 13, đã trở thành nhãn hiệu chính của Dòng. ---ĐTC Innocente IV đã ban sắc chỉ cấm các dòng khác không được bắt chước.

-Đức Alêxander IV lập lại điều đó vào ngày 5/5/1256 và 15/10/1259.

Các dòng khác phải sáng chế mẫu áo riêng, không được coppy Dòng Đa Minh hay

-Đức Clêmentê VIII vào ngày 2/10/1603 cho phép các tu sĩ dòng Augustinô mặc áo trắng khi ở trong tu viện, nhưng khi ra khỏi dòng phải mặc áo đen, kẻo khỏi lẫn với dòng Đa Minh.

-Đức Alêxanđrô VII tại Bullarium, OP VI, 218 cấm dòng Tucali áo trắng ko được mặc cappa màu đen kẻo lẫn với dòng Đa Minh.

KẾT:

Những chiếc áo dòng Đa Minh được thay đổi và biến chuyển rất nhiều qua dòng thời gian. Để có được chiếc áo dòng hoàn chỉnh ngày nay. Về chất liệu, ít người còn dùng vải thô để may áo dòng. Về chức năng, áo dòng không còn phải là y phục che thân nữa, nhưng là áo chức khoác lên trên thường phục, cũng giống như các Cha mặc đồ lễ khi cử hành Phụng vụ và được cởi ra khi đã xong việc. Tại VN trước năm 1975 chúng ta mặc áo dòng cách thường xuyên đi nữa, nhưng không ai mặc áo dòng khi lên giường ngủ. Biết bao tu sĩ đã hãnh diện khi mặc chiếc áo dòng này, biết bao vị tử đạo, và vì thế, nhiều anh em khi làm Giáo hoàng, Giám mục vẫn còn quyến luyến với chiếc áo dòng, hai màu trắng đen chứ không vướng theo mốt của hàng giáo chức gì nữa. dù sao đi nữa, niềm ước nguyện điều sau chót của người tu sĩ là được mai táng trong chiếc tu phục của mình trong dòng của mình.

-Khăn lúp: như dấu chỉ người nữ tu hoàn toàn thuộc về Đức Kitô là hiền thê của Chúa và hiến thân phục vụ Giáo hội.

Khăn lúp: dấu chỉ của hy sinh âm thầm, sự khiêm nhường, che dấu vẻ đẹp của mái tóc và khuôn mặt, buộc gọn tóc và lau khô mồ hôi khi làm việc, diễn tả sự khiêm tốn và thành tâm khi cầu nguyện.

Khăn lúp của sự dâng hiến và hy sinh, khổ hạnh.

-Phải cắt và che mái tóc dài của phụ nữ. VD: Mái tóc đẹp là niềm tự hào của người con gái, mái tóc bóng khỏe hoặc các kiểu tóc thời trang chính là điểm nhấn nhan sắc và gây chú ý nơi người phụ nữ. Khi sống đời thánh hiến, các nữ tu hy sinh mái tóc dài đáng tự hào ấy họ không còn chăm sóc cách đặc biệt cho mái tóc, không uốn, sấy, nhuộm mái tóc nữa, mà cắt gọn chúng mà dấu dưới khăn lúp, đó là một sự hy sinh lớn lao.

-Mang khăn lúp lâu giờ và trong môi trường nóng ẩm như VN không hề là điều dễ chịu, đặc biệt là sau khi tắm gội, mái tóc chưa khô hẳn hay khi làm việc lâu giờ khiến mồ hôi đầu chảy ra, thì chiếc khăn lúp càng làm cho da đầu và mái tóc bị ẩm, điều này là nguyên nhân gây ra các bệnh về da đầu và gàu, nấm da đầu, rụng tóc. Đây chính là hy sinh thầm lặng nhưng cao cả mà các nữ tu khi mang trên đầu chiếc khăn lúp và thực hiện các việc bổn phận hằng ngày, họ hy sinh cả tuổi xuân, cả mái tóc là niềm tự hào của người phụ nữ và chịu đựng những khó chịu mà chiếc khăn lúp gián tiếp gây ra. Như vậy, nhìn từ bên ngoài, chiếc khăn lúp là niềm vinh hạnh và niềm tự hào của các nữ tu sĩ. Nhưng đi kèm đó là sự hy sinh thầm lặng của các sơ.

-Chiếc áo choàng đen là sự che chở cho người tu sĩ khỏi cạm bẫy của 3 thù, nhắc nhở người tu sĩ sống từ bỏ, nép mình theo kỷ luật tu trì, sống giản dị và phó thác. Là bảo chứng cho sự che chở của Mẹ Maria dành cho con cái Cha Thánh Đa Minh (tu sĩ dòng ĐM nép mình trong tà áo đức mẹ).

-Áo phép: là bảo chứng Đức Mẹ dành cho con cái của Cha Thánh Đa Minh, áo phép như là mã giáp giúp người tu sĩ thắng vượt những yếu đuối, để sống cuộc đời trinh trong, tín thác vào sự che chở của Mẹ Maria trên bước đường dâng hiến.

Nói lên ý nghĩa của việc được Đức Mẹ che chở.

-Đai lưng: là sự giao ước kết chặt người tu sĩ với tình yêu Thiên Chúa, nói lên sự kết chặt tình yêu người tu sĩ với Chúa “Như người ta đeo đai ở lưng, thì Ta, Ta cũng thắt chặt nhà Israel và nhà Giuđa vào Ta” (Gr 13, 11). Thắt lưng buộc bụng…

Theo truyền thống, chính Đức Mẹ đã trao đặc biệt cho chân phước Renaldo và Dòng như dấu hiệu của việc Mẹ che chở và chăm sóc Dòng.

-Tràng hạt: nhắc nhở người tu sĩ Đa Minh hãy yêu mến Đức Mẹ, chuyên chăm giảng thuyết trong sứ vụ của mình. Truyền thống Dòng Đa Minh xưa nay luôn nhấn mạnh đến việc sùng kính Đức Mẹ cách đặc biệt nhất là trong việc đọc và truyền bá Kinh Mân Côi.

người tu sĩ Đa Minh đeo 150 hạt vì thời trung cổ, các ẩn sĩ và tu sĩ cầu nguyện bằng 150 thánh vịnh, nên sau này khi có Kinh Mân Côi, Dòng đã lấy 150 kinh thay cho 150 Thánh vịnh để cầu nguyện với Đức Mẹ. Ngoài ra, tràng hạt là vũ khí thiêng liêng của người tu sĩ Đa Minh, là sự cầu nguyện liên lỉ, vừa đi đường vừa cầu nguyện, Cha Thánh Đa Minh với 9 cách cầu nguyện…

Được đeo ở hông trái, bởi vì như các binh sĩ thời Trung cổ đeo gươm bên hông để chiến đấu, thì với Dòng Đa Minh, tràng hạt như là vũ khí thiêng liêng để chống lại 3 thù là thế gian, ma quỷ và xác thịt.

-Áo chùng trắng: nhắc nhở người tu sĩ thuộc về Hội Dòng của Giáo hội.

Giai đoạn Thỉnh viện và Tiền tập viện: khoác trên mình chiếc áo dài trắng thể hiện sự đơn sơ và tâm hồn trong trắng khi bắt đầu chập chững bước vào đời sống thánh hiến.

Giai đoạn Tập viện: bắt đầu với nghi thức trao áo dòng và đội lúp trắng, giai đoạn này thực hành nếp sống nhân bản và rèn luyện nếp sống tu trì qua việc rèn luyện các nhân đức, nói lên sự thánh thiện và là thời kì tập sống đời sống tu trì, đây là thời gian quan trọng nhất trong tiến trình đào tạo, các tập sinh học hỏi và tập sống các Lời khuyên Phúc Âm, tu luật và Hiến pháp Dòng.

Giai đoạn Khấn tạm: Với chiếc áo Dòng và khăn lúp đen.

Giai đoạn Khấn trọn: Chiếc áo dòng, khăn lúp đen và nhẫn giao ước,

 

Nháp

  Nháp Thần Khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là Thần khí và là sự sống (Ga 6, 63). -Từ ngàn x...