GỢI Ý TRẢ LỜI CÂU 1 –
MÔN ĐỜI SỐNG TÂM LINH
ĐỨC
THÁNH CHA BENEDICT XVI VÀ NĂM ĐỨC TIN
Nguồn:
https://catechesis.net/duc-thanh-cha-benedict-xvi-va-nam-duc-tin/
Lm. Matthêu Nguyễn Khắc Hy
S.S.
LỜI GIỚI THIỆU
Năm Đức Tin được Đức Thánh
Cha Bênêdictô XVI khởi xướng qua việc công bố Tông Thư Tự Sắc Porta Fidei (Cánh
Cửa Đức Tin) trong đó Ngài nói rõ lý do, mục đích và những hướng dẫn cho việc
cử hành năm Đức Tin.
Năm Đức Tin bắt đầu từ
ngày 1 tháng 10 năm 2012 – kỷ niệm 50 năm công đồng Vatican II và 25 năm xuất
bản cuốn Giáo Lý Công Giáo – cho đến ngày 14 tháng 11 năm 2013, dịp lễ Chúa
Kitô Vua. Trọng tâm là động viên Kitô hữu tái khám phá đức tin của mình để tìm
lại “niềm vui và sự hăng hái tìm gặp Đức Kitô,” đồng thời đối diện với chủ
nghĩa tục hoá và những thách đố khác đang làm khủng hoảng đức tin của nhiều
Kitô hữu.
Nói chuyện với thành viên
Thánh Bộ Tín Lý ngày 27 tháng 1 năm 2012, Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI nói đến
“hiện nay tại nhiều nơi, đức tin có nguy cơ bị dập tắt, như một ngọn lửa đang
tàn” vì “những khủng hoảng đức tin sâu xa, nhất là mất dần ý thức tôn giáo”
trong đời sống.
Năm Đức Tin nhấn mạnh đến
chưong trình Tân Phúc Âm hoá, một nổ lực đã được khai tâm từ thời Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II, nhằm củng cố đức tin cho Kitô hữu, nhất là những người “đã
đánh mất căn tính của mình,” và rao giảng cho thế giới biết sự cần thiết phải
có Thiên Chúa trong đời sống xã hội.
Trong Năm Đức Tin, chúng
ta sẽ có dịp học hỏi nhiều về đức tin Công Giáo mà chúng ta đã lãnh nhận. Như
tiêu đề của Tự Sắc Porta Fidei- Cánh Cửa Đức Tin, nhắc nhở mọi Kitô hữa đã bước
qua ngưỡng cửa đức tin là bí tích rửa tội, giờ đây cần mở lại cánh cửa đó để
đón nhận luồng gió mới của Chúa Thánh Thần khai sáng tâm trí và hâm nóng lại
nhiệt tình sống đạo.
Trong bài viết đầu tiên
của loạt bài về Năm Đức Tin, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về nguyên nhân và động
lực (có tính cách cá nhân) thúc đẩy Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI công bố năm Đức
Tin này.
BÊNÊDICTÔ XVI ĐỐI THOẠI VỚI
THẾ GIỚI HIỆN ĐẠI
Là một chuyên viên
(peritus) trẻ cho các nghị phụ tại công đồng Vatican II, là một thần học gia
trong những năm hậu Công Đồng, là Bộ Trưởng thánh bộ Tín Lý Đức Tin trong 25
năm, Đức Thánh Cha Bênêdictô đã tỏ ra dè dặt trong vấn đề đối thoại với thế
giới hiện đại. Hiến chế mục vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay, có tên là
Vui Mừng và Hy Vọng – Gaudium et Spes- được xem là văn kiện mở đường cho những
đối thoại giữa Giáo Hội và thế giới, và được nhiều thần học gia lấy làm điểm
xuất phát cho phong trào “đem đạo vào đời” hay “Thiên Chúa nhập thể để Giáo Hội
nhập thế”.
Nhưng Đức Thánh Cha
Bênêdictô không hoàn toàn đồng nhất với tư tưởng diễn dịch đó. Ngược lại, Ngài
có nhiều thắc mắc và cẩn trọng khi suy tư về Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng.
Trong nhiều bài viết và phát biểu, Đức Thánh Cha Bênêdictô cho là cách giải
thích của nhiều thần học gia đưong thời về Hiến Chế này là sai lầm, hoặc vì họ
hiểu sai lạc, hoặc vì họ cắt nghĩa bản văn không đúng với bối cảnh của nó. Đức
Thánh Cha Bênêdictô đã nhiều lần nhắc nhở các thần học gia cần đọc Hiến Chế này
không như một bản văn độc lập, nhưng chung với những văn kiện khác cúa Công
Đồng, nhất là Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen gentium – Ánh Sáng Muôn Dân để
thấy rõ những gì Thánh Công Đồng muốn dạy, và để soi tỏ những yếu tố chưa rõ
ràng trong Hiến Chế Gaudium et Spes.
Chính thần học gia trẻ J.
Ratzinger (Đức Thánh Cha Bênêdictô) đóng vai trò chủ động trong việc soạn bản
thảo cho Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng này. Trong thảo luận, Ngài đưa ra những
tiềm năng nguy hiểm mà nhiều nghị phụ, và nhất là các thần học gia bấy giờ, quá
lạc quan và phấn khởi khi nói đến đối thoại với thế giới hiện đại. Qua cái nhìn
nhân chủng học và vũ trụ học của Teihard de Chardin (một thần học gia Pháp có
ảnh hưởng lớn thời bấy giờ), một số các nghị phụ và các chuyên viên cố vấn
(peritus) đã quá vội vàng đồng hoá niềm hy vọng Kitô hữu với niềm tin của thế
giới hiện đại qua những tiến bộ của con người, nghĩa là, Giáo Hội không còn đối
nghịch với “Đời” vì cả hai cùng nhắm đến một mục đích cao cả là phục vụ công
ích cho con người và xã hội.
J. Ratzinger cho rằng đây
chính là yếu điểm “đơn sơ” của các nhà thần học cắt nghĩa Hiến Chế với sự nhầm
lẫn giữa thành quả khoa học và hy vọng Kitô giáo. Ngài sợ họ tập trung quá
nhiều và mầu nhiệm nhập thể (Thiên Chúa làm Người), mà quên đi mầu nhiệm Thập
Giá (Đức Kitô chết vì không cùng một quan điểm về Chân Lý và Luân Lý với thế
giới Ngài sống).
Chúng ta có thể nói được
rằng với Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI, Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng không là
giấy phép tùy tiện cho những đối thoại liên tục giữa Giáo Hội với thế giới hiện
đại, mà là những cảnh báo về tiêu chuẩn hạn chế cần quan tâm trong những đối
thoại đó. [1]
Với Đức Thánh Cha
Bênêdictô, đối thoại với thế giới chỉ thật sự đồng nhất khi thế giới (mà danh
từ Việt Nam tinh khéo gọi là Thế Gian) được tinh lọc, thánh hoá. [2]
Ratzinger cũng đã nhiều
lần nói đến sự cần thiết tái khám phá Công Đồng Vatican II khi Ngài công khai
phê bình sự cởi mở của Công Đồng đã bị nhiều thần học gia diễn dịch sai lạc.
[3] Theo Ratz¬inger, thế giới hiện đại rõ ràng không cùng quan điểm với Giáo
Hội khi bàn về Chân Lý, về Thiên Chúa, quan niệm Tội, Đúng- Sai v.v…
Vì thế, Kitô hữu cần tái
khám phá căn tính mình “trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian” (Jn
17:14-16).
BÊNÊDICTÔ XVI VÀ HIỆN TRẠNG
ÂU CHÂU
Từ khi làm giáo hoàng,
Bênêdictô XVI tiếp tục ưu tư của vị tiền nhiệm Đức Thánh Cha John Paul II, đã
nhiều lần lên tiếng về khủng hoảng đức tin Công Giáo nói riêng, và đức tin Kitô
giáo nói chung, ở châu Âu. [4] Theo thống kê về con số, Kitô hữu vẫn gia tăng ở
Á Châu và Phi Châu, nhưng con số những người hoặc công khai từ chối đức tin
Kitô giáo, hoặc không sống đức tin Kitô giáo, ngày càng nhiều ở Châu âu và Bắc
Mỹ. Các nhà thờ vắng bóng giáo dân. Họ không muốn đề cập đến tôn giáo trong học
đường hay ngoài xã hội. Ở nước Đức, nhiều Kitô hữu rút tên mình ra khỏi danh
sách đóng thuế cho nhà thờ, vì họ tự hỏi tại sao lại đóng thuế cho nhà thờ khi
họ không còn tin nữa.
Bên cạnh đó, mức sinh sản
của người Âu Châu thấp. Họ nghĩ đến hưởng thụ cá nhân và không nghĩ đến tương
lai có con cái hay cho con cái. Ngay cả khi chết, nhiều người không muốn chôn
cất theo nghi thức tôn giáo cổ truyền tốn kém, mà chỉ rải tro trên những nơi họ
muốn.
Âu châu tục hoá thật sự
đang trở lại thời kỳ vô thần, không theo nghĩa là không tin có Thiên Chúa,
nhưng theo một dạng vô thần mới ở đó con người sống không cần Thiên Chúa, và
nếu có Thiên Chúa thì Ngài cũng không ảnh hưởng gì đến đời sống con người.
Khi không tin vào Thiên
Chúa, con người lần mò tìm kiểm cho mình một đối tượng làm căn bản cho giá trị
đạo đức và trật tự xã hội. Về mặt sinh hoạt, khi Thiên Chúa và tôn giáo không
giải đáp được những nhu cầu hiện tại của con người, họ đặt hy vọng vào khoa học
kỹ thuật, một Vị Cứu Tinh mới của họ.
Đức Giáo Hoàng lên tiếng
rằng khủng hoảng Âu Châu gắn liền với khủng hoảng Giáo Hội. Với nền văn hoá Hậu
Hiện Đại tôn thờ chủ nghĩa cá nhân, đặt nặng quyền của con người hơn là nghĩa
vụ của họ đối với tha nhân, Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI đã cảnh cáo rằng con
người đang tự tiêu diệt mình vì tính ích kỷ, khi con người là đối tượng mà xã
hội phục tùng hơn là phục tùng xã hội. Đức Thánh Cha Bênêdictô còn khẳng định
rằng chỉ có một giải pháp cho khủng hoảng hiện tại là Âu Châu cần quay về với
nguồn gốc Kitô giáo của mình.
KHỦNG HOẢNG TRIẾT LÝ NHÂN
BẢN DẪN ĐẾN KHỦNG HOẢNG ĐỨC TIN
Việc Đức Thánh Cha
Bênêdictô XVI quan tâm cách đặc biệt đến tình trạng đức tin và sống đạo của Âu
Châu đã quá rõ ràng. Cho đến ngày nay Âu Châu vẫn đóng vai trò then chốt cho
nền tảng đức tin và các sinh hoạt của Giáo Hội. Dù con số giáo dân ở Á Châu và Phi
Châu đang gia tăng, nhưng ảnh hưởng về đời sống đạo vẫn còn lệ thuộc vào tư
tưởng Âu Châu rất nhiều.
Khi lên ngôi giáo hoàng và
chọn tên Bênêdictô, Đức Thánh Cha đương nhiệm không chỉ muốn nhắc đến vị tiền
nhiệm Bênêdictô XV (1914-1918) người có công hạn chế thiệt hại thế chiến thứ
nhất chia rẽ âu châu, mà Ngài còn nhắm đến thánh Bênêdictô, đấng sáng lập dòng
Biển Đức và là quan thầy của Âu Châu vì những đóng góp của thánh nhân cho di
sản Kitô giáo không thể chối cãi được trong văn hoá Âu châu. [5]
Âu châu đang gặp khủng
hoảng với chính những giá trị đã tạo ra nó, và đang bị thoái hoá vì chính những
giá trị đó bị hiểu sai lạc.
Khủng hoảng phát xuất từ
thành quả Tự Do và Dân Chủ trong xã hội. Tự Do (freedom), một tiến bộ của xã
hội, đã bị giáng cấp xuống thành quyền tự quyết cho chính cá nhân mình. Tự Do
hiểu theo lối cá nhân chủ nghĩa tùy tiện này hoàn toàn tiêu cực và trống rỗng.
Dân Chủ (democracy), một thành quả của nhân loại, được coi như một lá chắn (hay
bùa hộ mạng) bảo vệ cho Tự Do cá nhân qua việc trưng cầu ý muốn của đa số. Nói
cách khác, trong xã hội, con người đòi quyền tự do tuyệt đối cho mình, và họ
dùng lá bùa Dân Chủ để bảo vệ các quyền căn bản này. Ví dụ, Tự Do luyến ái,
đồng tính, phá thai, trợ tử, vô thần… được bảo vệ bởi hiến pháp của một đất
nước dân chủ.
Đức Thánh Cha Bênêdictô
nhấn mạnh rằng Tự Do và Dân Chủ là những món quà tuyệt vời của nhân loại, nhưng
nếu không bị ràng buộc bởi mục đích tìm công phúc cho xã hội và tìm chân lý,
chúng sẽ trở thành những nguyên tắc trống rỗng, dẫn đến hình thành chủ nghiã
tương đối (relativism), chủ nghiã hư vô (nihilism), chủ nghĩa yếm thế
(cynicism), và kết qủa là con người “ngây thơ” cổ động cho một văn hoá sự chết
mà họ cho là phục vụ cho lợi ích (hưởng thụ) của họ. [6]
Theo Ratzinger, Âu châu
không chịu rút ra bài học từ sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản, áp dụng phương
thức tự quyết (self-determination) cho mình mà không cần Thiên Chúa hay tôn
giáo như một yếu tố bảo đảm tính khách quan của Chân Lý, của Tự Do, của Luân Lý
Đúng-Sai. Chủ nghĩa cộng sản dùng vũ lực chính phủ (khác với các nước khác dùng
lá phiếu Dân Chủ) để củng cố thêm quyền tự định đoạt này. [7]
Theo Đức Thánh Cha
Bênêdictô, Âu Châu đang rối loạn với những hệ tư tưởng lẫn lộn mà không có một
hướng đi rõ ràng, ngoại trừ điều mà nhiều người cho là “tín lý bất khả ngộ” của
xã hội, đó là: tự do cá nhân cần phải được tôn trọng (tuyệt đối).
Khi quyền tự quyết (tự do
cá nhân) được cổ võ mà thiếu cơ sở luân lý hay sự đồng thuận về luân lý, con
người sẽ rơi vào tình trạng hổn loạn dẫn đến tự hủy diệt. Ví dụ, khoa học đã
thành công Tạo Sinh Vô Tính (cloning) chó, mèo, dê, cừu… Vậy việc gì ngăn cản
những khoa học gia điên rồ rồi đây sẽ tạo ra những con người trong phòng thí
nghiệm với mục đích cá nhân, hay các nhà độc tài tạo ra con người với mục đích
quân sự?
Vậy đâu là nền móng Luân
Lý- Đạo Đức của xã hội? Đức Thánh Cha Bênêdictô trả lời là Sự Thật, vì như Chúa
Giêsu nói “Sự Thật sẽ giải thoát chúng ta” (Jn 8:32). Chính Chúa Giêsu Kitô là
Sự Thật (Jn 24:6). Vì thế, Ngài là nền tảng Luân Lý-Đạo Đức cần có của xã hội.
Triết lý Âu Châu ngày nay
lặp lại tư tưởng thời Phục Hưng, cho rằng Sự Thật là sản phẩm của xã hội được
quyết định bởi đa số (nhiều người thì đúng, ít người thì sai). Với Bênêdictô,
Chân Lý và Tự Do không là sản phẩm con người mà là quà tặng con người đón nhận.
Chân Lý được Thiên Chúa mặc khải trong lịch sử, và chính nó trở thành nền tảng
Luân Lý của con người khi Thiên Chúa ban cho con người khả năng nhận thức và áp
dụng Chân Lý đó trong từng hoàn cảnh sống của xã hội dưới sự hướng dẫn của Chúa
Thánh Thần. Nghĩa là, Chân Lý và Luân Lý là giới răn Thiên Chúa truyền ban,
không phải là lựa chọn do con người đặt ra và làm chủ. Kết qủa của một xã hội
tự tạo Chân Lý hay tiêu chuẩn Đạo Đức bằng ý kiến đa số hay ý của kẻ mạnh sẽ
dẫn đến một xã hội phi lý, phi luân lý, và diệt vong.
Đức Thánh Cha Bênêdictô
thực sự chất vất và ưu tư về sự khập khểnh trong tương quan giữa Khoa Học Kỹ
Thuật và Gía Trị Đạo Đức con người ngày nay khi Âu Châu loại bỏ Thiên Chúa ra
ngoài hiến pháp và đời sống thường ngày của họ.
Đây cũng là lí do mà những
xã hội khác (Phi Châu, Á Châu và các nước Hồi Giáo) đã lên án lối sống thác
loạn và loại trừ tiêu chuẩn sống của Âu châu như một mẫu mực cho đời sống con
người. [8]
Đức Thánh Cha Bênêdictô
kêu gọi mọi Kitô hữu cần ý thức “chống lại trào lưu thế giới”, can đảm “lội
ngược dòng” để rao giảng tin mừng Chúa Kitô và đem lại đức tin cho Âu Châu, một
giải pháp duy nhất cứu họ khỏi diệt vong.
KẾT LUẬN
Năm Đức Tin cần thiết,
trước hết và trên hết, là cho sự sống còn của Âu Châu. Theo Đức Thánh Cha
Bênêdictô, khủng hoảng Châu Âu là sự xung đột giữa Tin hay Không Tin, giữa hệ
tư tưởng Lý Luận Luân Lý dựa trên Thiên Chúa là Đấng Bảo Đảm cho tính tuyệt đối
của nó, và hệ tư tưởng Tuyền Duy Lý xuất phát từ sau thời Phục Hưng, hưng thịnh
nhất là sau thế kỷ 17. Âu châu đang chối bỏ căn tính của mình khi loại Thiên
Chúa và giá trị Kitô giáo ra khỏi những luật lệ chính trị quốc gia, với mục
đích tạo một xã hội tục hoá trong đó con người có thể đứng lại với nhau và sống
công bằng mà không cần Thiên Chúa.
Giải pháp duy nhất cho
khủng hoảng này là quay trở về với Đức Tin Kitô giáo. Đức Thánh Cha Bênêdictô
XVI nói: “Lúc này đây, Âu châu và thế giới cần đến sự hiện diện của Thiên Chúa…
Là những Kitô hữu, chúng ta có trách nhiệm duy trì sự hiện diện của Thiên Chúa
trên thế giới, vì chỉ có sự hiện diện này mới có sức mạnh gìn giữ con người
khỏi tự huỷ hoại chính mình.” [9]
Đây chính là mệnh lệnh
Chúa Giêsu nói với tất cả chúng ta: “các con là ánh sáng thế gian… là muối cho
đời” (Mt 5:23-26).
————
Chú thích:
[1]Bất đồng đưa đến chia
rẽ giữa những thần học gia sau công đồng. Năm 1972, Joseph Ratzinger cùng với
Hans Urs von Balthasar, Karl Lehmann, Henri de Lubac và những thần học gia khác
xuất bản nguyệt san thần học Communio thay thế cho nguyệt san Concilium mà họ
cho là quá cấp tiến, và “muốn thiết lập một hệ thống giáo huấn thứ hai”. Xem
“Nicht ich habe mich geändert, sondern die Andern”, trong Joseph Ratzinger, Zur
Lage des Glaubens: Ein Gespräch mit Vittorio Messori (Munich/Zurich/Vienna:
Neue Stadt, 1985), p. 16.
[2] Đức Thánh Cha Benedict
XVI dùng động từ “trừ tà” để chỉ việc thanh luyện này trong thế gian trong bài
viết “Angesichts der Welt von heute”, in Dogma und Verkündigung, (1973) p. 201.
[3] J. Ratzinger có những
phê bình tiêu cực khi thấy một số các thần học gia cấp tiến (như Edward
Schillebeeckx và cụ thể là Johann Baptist Metz khai thác thần học chính trị của
ông) cho là họ theo tinh thần Vatican II khi giới thiệu tư tưởng hậu-Marxist
vào trong thần học suy niệm của họ. Với Ratz¬inger, hiểu như vậy về Gaudium et
spes là sai khi nói đến những cởi mở và hợp thời của công đồng, vì Giáo Hội sẽ
không bao giờ ngừng tiến trình hội nhập với xã hội. Xem Joseph Ratzinger, “Der
Katholizismus nach dem Konzil—Katholische Sicht”, in Auf Dein Wort hin. 81.
Deutscher Katholikentag (Paderborn: Bonifacius, 1966), pp. 245–266; “Der
Weltdienst der Kirche. Auswirkungen von Gaudium et spes im letzten Jahrzehnt”,
in Internationale katholische Zeitschrift Vol. 4 (1975), pp. 439–454.
[4] J. Ratzinger, Values
in a Time of Upheaval, (Ignatius press, 2006) p. 145.
[5] Xem bài phát biểu buổi
triều yết của Đức Thánh Cha Benedict XVI ngày 27 tháng 4 năm 2005 với giáo dân.
[6] Văn hoá sự chết được
tìm thấy trong việc sử dụng ngày càng nhiều các chất hoá học (như thuốc phiện)
để hưng phấn con người. Bên cạnh đó, thanh niên Âu Châu sống hiện tại mà sợ
tương lai. Họ thường trì hoãn việc lập gia đình, nếu không nói là không muốn có
gia đình vì thêm khó khăn. Xem J. Ratzinger, Values in a Time of Upheaval, p.
140.
[7] J. Ratzinger, Europe:
Today and Tomorrow, (Ignatius Press, 2007) p. 67ff.
[8] Các nước Hồi Giáo ngày
càng củng cố căn tinh tôn giáo của họ (đôi khi với phương thức cực đoan) là câu
trả lời cho ảnh hưởng Âu Châu mà họ không chấp nhận cho con cái họ sau này. J.
Ratzinger, Values in a Time of Upheaval, p. 138-139.
[9] J. Ratzinger, Values
in a Time of Upheaval, p. 165.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét