GỢI Ý TRẢ LỜI MÔN ĐỜI SỐNG TÂM LINH - CÂU 3
Nguồn: https://tgpsaigon.net/bai-
NĂM ĐỨC TIN CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHAOLÔ VI
Trong
tự sắc Porta Fidei (số 4) công bố Năm Đức Tin, Đức Thánh Cha
Bênêđictô XVI nhắc lại rằng trước đây Năm Đức Tin cũng đã được cử hành dưới
thời Đức Thánh Cha Phaolô VI. Trong bài này, chúng tôi muốn nhắc lại vắn tắt
biến cố ấy và đặc biệt giới thiệu bản tuyên xưng “Kinh Tin Kính của Dân Thiên
Chúa” được đọc vào ngày bế mạc.
I. Ý nghĩa của Năm Đức Tin
Do
Tông Huấn Petrum et Paulum Apostolos (ngày 22/2/1967), Đức
Thánh Cha Phaolô VI tuyên bố một Năm Đức Tin, từ ngày 29/6/1967 đến ngày
29/6/1968, để kỷ niệm 1900 năm cuộc tuẫn đạo của hai thánh tông đồ Phêrô và
Phaolô. Trong văn kiện vừa kể, Đức Thánh Cha nêu lý do của biến cố này. Ngoài
việc tưởng nhớ hai thánh tông đồ, cũng giống như Đức Thánh Cha Piô IX đã làm
một thế kỷ trước đó, Hội thánh thời nay cần tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu
đứng trước những nguy hiểm của thời đại: bên ngoài là não trạng vô thần của xã
hội, quá tự tin vào khoa học và lãng quên Thiên Chúa; nhưng nhất là ngay trong
lòng Hội thánh cũng có những tư tưởng đòi xét lại niềm tin cổ truyền. Đối với
đức Phaolô VI, những kẻ “nội thù” còn nguy hại hơn là những kẻ thù bên ngoài.
Để
hiểu vấn đề, cần đi ngược lại dòng thời gian. Công đồng Vaticanô II bế mạc ngày
8/12/1965, mang lại nhiều “vui mừng và hy vọng” nơi nhiều người. Nhưng sau một
thời gian ngắn, một bầu khí căng thẳng đè nặng lên Giáo hội. Phái “cấp tiến”
muốn thừa thắng xông lên, đẩy mạnh công cuộc canh tân của công đồng trong mọi
lãnh vực: đức tin, phụng vụ, kỷ luật. Phái “bảo thủ” đâm ra lo lắng cho những
đề nghị quá đà ấy, và lo sợ cho sự tồn tại của Hội thánh, không hiểu còn duy
trì sự liên tục với truyền thống các thánh tông đồ hay không, và quay ra bài
xích công đồng.
Trong
Năm Đức Tin, Đức Thánh Cha đã dành nhiều bài huấn dụ để giải thích ý nghĩa của
đức tin trong nhiều bài huấn dụ nhân ngày tiếp kiến chung ngày thứ tư hằng
tuần:
Năm
Đức Tin cần phải được năng động với nhiều công phúc (1/3/1967). Mỗi
trang của công đồng nếu nói đến đức tin (8/3/1967). Đức
tin là ngọn đèn trên cuộc lữ hành dương gian (15/3/1967). Những
cuộc gặp gỡ của Chúa Phục sinh với các thánh tông đồ (29/3/1967). Đức
tin là điều làm chúng ta chiến thắng thế gian (5/4/1967). Vượt
lên những sự yếu đuối của thời đại chúng ta (12/4/1967). Thực
tại rực rỡ của Kinh Tin Kính (19/4/1967). Cả đức trinh nữ
Maria cũng tiến bước trên cuộc lữ hành đức tin (10/5/1967). Giảng
dạy tốt và ngoan ngoãn lắng nghe Tin mừng (31/5/1967). Luôn
luôn tỉnh thức để duy trì đạo lý được nguyên tuyền (14/6/1967). Tìm
kiếm chân lý và kiên trì trong việc cầu nguyện (21/6/1967). Cử
hành long trọng cuộc tuẫn đạo của hai thánh Phêrô và Phaolô (29/6/1967:
Thánh lễ khai mạc Năm Đức Tin). Gia sản tuyệt vời của các thánh tông đồ (5/7/1967). Với
đức tin, cuộc đời không đen tối (27/9/1967). Mầu nhiệm Hội
thánh, phẩm giá và sứ mạng của người Kitô hữu (10/1/1968). Lắng
nghe và đi theo Chúa Kitô giữa những tình huống ngang trái của thế giới (31/1/1968). Ý
nghĩa và giá trị của việc thuộc về Hội thánh (13/3/1968). Chứng
tá của thánh Phêrô trải qua các thế kỷ (3/4/1968). Vui mừng và
hy vọng vì sự thức tỉnh lương tâm Kitô giáo (25/4/1968). Hoạt
động tông đồ của các tín hữu(15/5/1968). Sự dấn thân của mỗi người
tín hữu (22/5/1968). Những nhân đức gương mẫu và sự bầu cử của
Mẹ Maria (29/5/1968). Đức tin mang lại ánh sáng và nâng đỡ (5/6/1968). Nhìn
nhận và chúc tụng Thiên Chúa cao cả và khoan nhân (12/6/1968). Một
đức tin sống động (19/6/1968).Thánh Phêrô và thánh Phaolô, nền tảng
của Giáo hội Rôma (26/6/1968). Tuyên xưng đức tin(Thánh lễ
bế mạc Năm Đức Tin: 30/6/1968). Chú giải Kinh Tin Kính (3/7/1968). Tuyên
xưng và hành động (10/7/1968). Đức tin và đời sống luân lý (17/7/1968). Ý
nghĩa Kinh Tin Kính của Dân Thiên Chúa (30/10/1968).
Đức
Thánh Cha đã dành không ít bài để diễn giảng Kinh Tin Kính, đặc biệt là Kinh
Tin Kính mà ngài đã soạn.
II. Kinh Tin Kính của Dân Thiên Chúa
Một
đặc trưng của Năm Đức Tin là vào ngày bế mạc Năm Đức Tin (30/6/1968)[1],
Đức Thánh Cha Phaolô VI đã đọc một bản tuyên xưng đức tin, được đặt tên là “Kinh
Tin Kính của Dân Thiên Chúa”. Sau khi nhắc qua nguồn gốc lịch sử của
bản kinh này, chúng ta sẽ tìm hiểu nội dung của nó.
A. Lịch sử
Vào
giai đoạn cuối của công đồng Vaticanô II, cha Yves Congar đã đề nghị một bản
tuyên xưng đức tin, giống như các công đồng trước đây, nhưng thay vì những lời
kết án các lạc thuyết, cha đề nghị một công thức dựa trên tư tưởng của Kinh
thánh hơn. Xem ra đề nghị ấy không được quan tâm cho lắm.
Sau
khi Năm Đức Tin đã bắt đầu, Thượng Hội Đồng Giám mục được triệu tập tại Rôma từ
ngày 29/9 đến 29/10, để bàn về việc duy trì và củng cố đức tin công giáo. Các
nghị phụ đã nghiên cứu sự bành trướng của chủ nghĩa vô thần, cuộc khủng hoảng
đức tin, những tư tưởng thần học lệch lạc. Thượng Hội Đồng đã đề nghị đức
Phaolô VI một bản tuyên ngôn đức tin, để soi sáng cho các tín hữu biết những gì
thuộc về đức tin công giáo, và những gì chỉ là ý kiến của các nhà thần
học. Mặt khác, từ tháng 10 năm 1966, dư luận rất xôn xao sau khi cuốn
sách Giáo lý Hà Lan được xuất bản, trong đó đặt lại nhiều vấn đề thuộc đức tin,
chẳng hạn như về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Thánh Thể, sự trinh khiết
của Đức Maria, tội nguyên tổ. Tòa thánh đã thiết lập một Ủy ban Hồng y để duyệt
lại cuốn sách này.
Ngày
14/12, hồng y Charles Journet, một thành viên của Ủy ban, được Đức Thánh Cha
tiếp kiến, và ngài đã gợi ý soạn một Kinh Tin Kính. Đức Thánh Cha đồng ý và nhờ
chính hồng y soạn thảo bản văn. Thực ra ý tưởng này do ông Jacques Maritain đã
gợi lên cho đức hồng y, và sau khi được sự ủy thác của đức Phaolô VI, ngài lại
nhờ ông viết bản văn. Bản thảo đã hoàn tất vào tháng giêng năm 1968 và được
chuyển sang Rôma. Sau nhiều cuộc trao đổi giữa ông Maritain và hồng y
Journet với bộ Giáo lý Đức tin, bản văn cuối cùng đã hoàn tất vào tháng 4[2].
Về giá
trị đạo lý của bản tuyên xưng này, chính Đức Thánh Cha đã xác nhận rằng đây
không phải là một việc công bố tín điều theo nghĩa chặt; tuy vậy nó mang ý
nghĩa đặc biệt bởi vì là lời tuyên xưng long trọng các chân lý cổ kính từ công
đồng Nixea và thêm vào những giải thích do điều kiện thời nay đòi hỏi[3].
B. Cấu trúc
Các
tín biểu cổ điển được chia thành ba phần, tương ứng với công trình của Ba Ngôi
Thiên Chúa. Công đồng Trentô lấy lại tín biểu của công đồng Constantinopolis,
và thêm những đạo lý mới vào phần cuối. Kinh Tin Kính Dân Chúa tuy lấy những tư
tưởng chính của tín biểu Constantinopolis nhưng xếp đặt theo một cấu trúc khác,
và thậm chí xen thêm những lời giải thích vào mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi và mầu
nhiệm Đức Kitô. Bản Tuyên xưng đức tin gồm 30 số, gồm 7 số dẫn nhập giải thích
lý do của việc tuyên xưng[4] và
23 số còn lại là bản kinh. Thiết tưởng có ít là hai cách thức để phân chia nội
dung: 1/ dựa theo những lời mở đầu “chúng tôi tin”; 2/ dựa theo những chủ đề
chính.
(1) Dựa theo những
lời mở đầu, chúng ta có thể kể ra ít là hai mươi câu khẳng định (tín điều).
Công
thức “Chúng tôi tin” không chỉ mang tính cách trang trọng, nhưng còn
phản ánh lối văn của các bản tuyên xưng đức tin cổ truyền của các công
đồng (kể cả bản kinh của công đồng Constantinopolis): các giám mục tuyên xưng
đức tin nhân danh toàn thể Hội thánh.
1.
Chúng tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần.
2.
Chúng tôi tin Thiên Chúa duy nhất ... là Đấng Hiện Hữu và Tình yêu.
3.
Chúng tôi tin Đức Chúa Cha đã sinh Đức Chúa Con từ trước vô cùng.
4.
Chúng tôi tin Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa.
5.
Chúng tôi tin Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống.
6.
Chúng tôi tin Đức Maria là Mẹ, trọn đời đồng trinh, của Ngôi Lời Nhập thể.
7.
Chúng tôi tin mọi người đã phạm tội nơi ông Ađam.
8.
Chúng tôi tin Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng tôi, đã chuộc chúng tôi khỏi tội tổ
tông và khỏi mọi tội riêng mình phạm.
9.
Chúng tôi tin Chúa Giêsu Kitô đã lập phép rửa để tha tội.
10.
Chúng tôi tin Hội thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền, được
Chúa Kitô đã xây trên tảng đá Phêrô.
11.
Chúng tôi tin tất cả những gì chứa đựng trong Lời Chúa đã được ghi chép và
truyền lại.
12.
Chúng tôi tin Đấng kế vị thánh Phêrô được ơn bất khả ngộ.
13.
Chúng tôi tin Hội thánh duy nhất trong đức tin và phụng tự và trong sự hiệp
thông phẩm trật.
14.
Chúng tôi tin rằng Hội thánh là cần thiết cho phần rỗi.
15.
Chúng tôi tin Thánh lễ là lễ hy sinh núi Sọ hiện diện cách bí tích trên bàn
thờ.
16.
Chúng tôi tin bánh và rượu do tư tế thánh hiến trở nên Mình và Máu Thánh của
Chúa Kitô hiển vinh.
17.
Chúng tôi tuyên xưng rằng Nước Thiên Chúa được khơi mào ở thế gian này trong
Hội thánh Chúa Kitô, nhưng không thuộc về thế gian.
18.
Chúng tôi tin cuộc sống muôn đời.
19.
Chúng tôi tin rằng toàn thể những linh hồn được tụ họp chung quanh Chúa Giêsu
và Đức Maria trên thiên đàng họp thành Hội thánh trên trời.
20.
Chúng tôi tin rằng mọi tín hữu hiệp thông trong Chúa Kitô.
(2) Dựa theo những chủ đề tài chính,
ta có thể chia thành 8 mục, sau phần nhập đề: Mầu nhiệm Thiên Chúa nhất
thể tam vị, Mầu nhiệm đức Kitô, Thánh Linh, Thánh mẫu, Tội nguyên tổ, Hội
thánh, Thánh Thể, Cánh chung. Chúng ta hãy nhìn qua nội dung của mỗi mục
Nhập đề (số 1-7)
Lý do
của việc tuyên xưng. Giá trị đạo lý của bản tuyên xưng.
1/ Thiên Chúa Nhất vị Tam thể (số 8-10)
* số
8: Tuyên xưng một Thiên Chúa trong ba ngôi. (Tín biểu Constantinopolis: Thiên
Chúa là Cha, Đức Kitô là Chủ tể, đồng bản thể với Cha). Đấng Tạo dựng (vì là
một hoạt động bên ngoài cho nên được quy cho cả ba ngôi) muôn vật: hữu hình và
vô hình (kể cả các thiên sứ: công đồng Lateranô IV) và mỗi linh hồn con người,
thiêng liêng và bất tử (công đồng Laterano V).
* số
9: Thiên Chúa duy nhất theo bản tính nhưng bao gồm tất cả mọi thiện hảo: Ngài
là Hiện hữu, Tình yêu, khôn tả và khôn thấu.
* số
10: Sự nhiệm xuất: Con được sinh ra; Thánh Linh phát xuất từ Cha và Con.
2/ Đức Kitô (số 11-12)
* số
11: Sự Nhập thể
- Thiên tính của đức Kitô: Chủ tể, Con Thiên Chúa, Lời Thiên Chúa, cùng một bản
thể với Cha.
- Nhờ Người mà muôn vật được tạo thành (công đồng Nixêa)
- Ngôi Lời đã làm người (công đồng Nixêa) nghĩa là với một linh hồn và thân xác
con người.
- do quyền năng của Thánh Linh ...: Đức Maria là trinh nữ và là mẹ (chống lại
thuyết ảo thân, ngộ giáo).
- Đức Kitô có hai bản tính (công đồng Ephesô, Calxêđonia, tín biểu Athanasiô).
* số
12: Mầu nhiệm Cứu chuộc
- Đức Kitô cư ngụ giữa chúng ta, mặc khải Thiên Chúa cho chúng ta, loan báo và
thiết lập Nước Thiên Chúa. Người mạc khải Thiên Chúa là Cha, mạc khải điều răn
mới của các chân phúc.
- Mầu nhiệm Vượt qua: Tử nạn (chịu chết trên thập giá, cứu cuộc trong máu của
Người). Phục sinh; Lên trời.
- Quang lâm và Chung thẩm.
3/ Thánh Linh (số 13)
*
Tín biểu Constantinopolis: Thánh Linh là Chúa, Đấng ban sự sống, được phụng thờ
và tôn vinh với Cha và Con, Người đã phán dạy qua các ngôn sứ.
*
Tác động của Thánh Linh trong Hội thánh: Người được phái đến Hội thánh để soi
sáng, thánh hóa, bảo vệ Hội thánh (Hội thánh bất khả hủy).
4/ Thánh mẫu (số 14-15)
* số
14: Đức Maria là Thiên mẫu (Công đồng Ephesô); trọn đời trinh khiết; vô nhiễm
nguyên tội.
* số
15: Đức Maria hồn xác lên trời. Vai trò chuyển cầu. Mẹ của Hội thánh (Lumen
gentium).
5/ Tội nguyên tổ (số 16-18)
* số
16: Khẳng định tội nguyên tổ. (Tình trạng thánh thiện và công chính vào buổi
đầu; tội của ông Ađam và được truyền lại, chứ không phải do bắt chước: Công
đồng Trentô).
* số
17: Công trình cứu chuộc của đức Kitô.
* số
18: Sự cần thiết của bí tích rửa tội, kể cả cho các nhi đồng (Công đồng
Trentô).
6/ Hội thánh (số 19-23)
* số
19: Những yếu tố cấu thành Hội thánh: một (duy nhất, hợp nhất), thánh
thiện, công giáo, tông truyền, hữu hình và vô hình (Lumen gentium).
* số
20: Đặc ân bất khả ngộ khi truyền thông gia sản đức tin (Lumen gentium, 25).
* số
21: Duy nhất và đa dạng trong Hội thánh: duy nhất trong đức tin, phụng tự, dây
hiệp thông; đa dạng trong nghi điển phụng vụ; khác biệt trong gia sản thần học
và tâm linh (Lumen gentium).
* số
22: Niềm tin và hy vọng vào sự hợp nhất Hội thánh.
* số
23: Hội thánh cần thiết cho sự cứu độ.
7/ Thánh Thể (số 24-26)
* số
24: Thánh lễ thực sự là hy lễ (Công đồng Trentô).
* số
25: Chúa Kitô thực sự hiện diện trong bí tích, nhờ sự biến đổi gọi là
“transsubstantiatio”.
* số
26: Chúa Kitô hiện diện thường xuyên trong bí tích. Việc tôn thờ Thánh Thể.
8/ Cánh chung (số 27-30)
* số
27: Hội thánh trong thế giới: Nước Thiên Chúa và các giá trị trần thế
* số
28: Đời sống vĩnh hằng. Luyện tội. Cánh chung trung thời. Sự phục sinh.
* số
29: Thiên đàng. Hội thánh thiên quốc.
* số
30: Sự hiệp thông các thánh.
Nguyên
bản tiếng Latinh được đăng trong AAS 60 (1968) 434-445. Bản dịch Việt ngữ
được đăng trên Linh mục nguyệt san Sacerdos số 81, tháng 8 năm 1968, trang
498-507, với vài sửa đổi (cách riêng phân đoạn, đặt tựa đề).
Kinh Tin Kính của Dân Chúa
Anh em
đáng kính và các con yêu dấu,
1. Với lễ nghi trang trọng này chúng tôi bế mạc năm kỷ
niệm 19 thế kỷ cái chết anh hùng của hai thánh Tông đồ Phê-rô và Phao-lô, và
như thế chúng tôi cũng muốn bế mạc, “Năm Đức Tin” để kính nhớ liệt vị Tông đồ,
để chứng tỏ ý chí trung thành không thể nao núng vào kho tàng đức tin (x. 1Tm
6,20) mà các ngài truyền lại cho chúng ta, đồng thời để củng cố ý muốn sống đức
tin đó trong giai đoạn lịch sử Giáo Hội đang trải qua đường lữ thứ trần gian.
Những lời cám ơn
2. Chúng tôi cảm thấy có nhiệm vụ phải
cám ơn cách công khai tất cả những người đã hưởng ứng lời kêu gọi của chúng
tôi, đã đem lại cho “Năm Đức Tin” sự sung mãn lạ lùng của nó bằng cách đào sâu
niềm tin tưởng của chính bản thân vào Lời Thiên Chúa, bằng cách tổ chức những
cuộc đoàn thể tuyên xưng đức tin và thực hiện nhân chứng về đời sống Kitô hữu.
Với anh em trong hàng Giám mục, và với đoàn thể tín hữu trong Hội thánh Công
Giáo, chúng tôi muốn ngỏ lời cám ơn cách riêng và ban phép lành Toà Thánh đặc
biệt.
Nhiệm vụ củng cố đức tin cho anh em
3. Đồng thời, chúng tôi nhận thấy nhiệm vụ phải thi hành
sứ mệnh mà Chúa Kitô đã trao phó cho thánh Phê-rô mà chúng tôi là người kế
nghiệp - người rốt nhất xét về công trạng - đó là sứ mệnh củng cố đức tin
nơi các anh em (x. Lc 22,32). Dĩ nhiên chúng tôi ý thực sự yếu hèn của chúng
tôi, nhưng với tất cả sức mạnh do một sứ mệnh thông đạt cho chúng tôi, giờ đây
chúng tôi, xin tuyên xưng đức tin của chúng tôi, chúng tôi tuyên đọc một kinh
Tin Kính, tuy không là tuyên bố một tín điều, nhưng là lặp lại và quảng diễn
Kinh Tin Kính của Công đồng Ni-xê của Thánh truyền bất tử trong Hội Thánh Thiên
Chúa, phù hợp với hoàn cảnh ngày nay.
Người thời đại trước vấn đề đức tin
4. Làm như thế là vì chúng tôi nhận thấy nỗi niềm ưu tư
hiện đang dằn vặt tâm can con người thời đại trước vấn đề đức tin. Họ không thể
thoát ly ảnh hưởng của một thế giới đang bị lung lay tân gốc, trong đó có nhiều
xác tín cũng bị đem ra mổ xẻ và tranh luận. Chúng tôi thấy cả những người Công
giáo cũng đang say mê mới lạ và đổi thay. Đã hẳn Giáo Hội luôn luôn có bổn phận
cố gắng nghiên cứu và trình bày, một cách thích hợp với tâm trạng người thời
nay, những mầu nhiệm khôn lường của Thiên Chúa, mang nặng những hiệu quả cứu độ
cho mọi người. Tuy nhiên, phải hết sức thận trọng, trong khi nghiên cứu tìm
hiểu, không được vi phạm đến giáo lý tinh truyền của đạo, vì như thế, chỉ sinh
hỗn độn và gây hoang mang cho bao người tín hữu, như kinh nghiệm đã cho biết.
Trách vụ người chú giải
5. Muốn thế, cần phải nhớ rằng bên kia cái có thể quan
sát và kiểm chứng một cách khoa học được, trí khôn mà Thiên Chúa đã ban cho
chúng ta có thể hiểu cái thực hữu, chứ không chỉ là sự bộc
lộ chủ quan của những cơ cấu và của sự tiến hoá lương tâm; mặt khác trách
vụ của người Chú giải là vừa tôn trọng vừa tìm hiểu và làm sáng tỏ ý nghĩa thật
của nguyên văn, chứ không võ đoán đưa ra một nghĩa giả định.
Niềm tin tưởng sắt đá
6. Nhưng, trước hết và trên hết, chúng tôi đặt niềm tin
tưởng sắt đá của chúng tôi nơi Chúa Thánh Thần là linh hồn của Giáo Hội, và nơi
chính Đức Tin là nền tảng của đời sống của Nhiệm thể (Chúa Kitô). Chúng
tôi biết các tâm hồn đang mong chờ vị đại diện của Chúa Kitô lên tiếng, và
trong nhiều dịp chúng tôi đã đáp ứng lòng mong đợi đó. Thế nhưng hôm nay là cơ
hội đặc biệt để nói lên một lời trang trọng hơn.
Nhân danh toàn thể Dân Chúa
7. Trong ngày được chọn để bế mạc Năm Đức Tin, ngày lễ
hai thánh Tông đồ Phê-rô và Phao-lô, chúng tôi muốn dâng lên Thiên Chúa hằng
sống lễ vật tuyên xưng đức tin của chúng tôi. Và cũng như xưa, tại Cêsarê
Philipphê, Tông đồ Phêrô đại diện cho mười hai Tông đồ đã vượt trên dư luận
người đời, tuyên xưng Đức Kitô là Con Thiên Chúa hằng sống, thì nay, người kế
vị hèn mọn của Người, chủ chiên của Hội thánh hoàn vũ, xin được phép lên tiếng
nhân danh toàn thể Dân Chúa, để làm chứng về chân lý thiên linh đã được uỷ thác
cho Hội thánh để truyền bá cho mọi dân tộc.
Chúng
tôi muốn cho việc tuyên xưng đức tin của chúng tôi được khá đầy đủ và rõ ràng,
để đáp ứng đặc biệt với nhu cầu của bao tâm hồn tín hữu cũng như của bao người
đang sống trong trên mặt đất, thuộc bất cứ Cộng đồng tôn giáo nào, đang
đi tìm ánh sáng Sự Thật.
Để làm
vinh danh Thiên Chúa cực thánh và Đức Kitô Chúa chúng ta, cậy trông vào sự phù
giúp của Đức Trinh Nữ Maria và các Thánh Tông đồ Phê-rô và Phao-lô, để mưu ích
cho Giáo Hội, nhân danh toàn thể các chủ chăn và tín hữu, giờ đây chúng tôi đọc
lời tuyên xưng Đức tin, trong niềm hiệp thông tinh thần với tất cả các anh em
và con cái yêu dấu.
Tuyên xưng Đức tin
I. Thiên Chúa nhất thể tam vị
8. Chúng tôi tin kính một Thiên Chúa duy nhất, là Cha,
Con và Thánh Thần, Đấng tạo thành muôn vật, hữu hình như thế giới này, nơi đây
chúng ta đang sống đời tạm bợ, và vô hình như các thuần thần cũng gọi là thiên
thần (x. Dz.-Sch. 3002) và là Đấng tạo thành linh hồn thiêng liêng
và bất tử ở nơi mỗi người.
9. Chúng tôi tin rằng Thiên Chúa duy nhất là một trong
bản thể vô cùng thánh thiện, gồm hết mọi thiện hảo, toàn năng, hiểu biết vô
tận, quan phòng, có ý muốn và tình thương. Thiên Chúa là Đấng hiện hữu,
như Ngài đã mặc khải với Mai-sen (x. Xh 3,14); và Thiên Chúa là Tình
Yêu, như thánh tông đồ Gioan dạy (x. 1 Ga 4,8): Hiện Hữu và Tình
Yêu hai danh hiệu để chỉ một bản tính khôn tả của Thiên Chúa, Đấng đã khấng tỏ
mình ra cho chúng ta, Đấng “ngự trên ánh sáng siêu phàm” (x. 1
Tm 6,16), Đấng ở trên mọi danh hiệu, ở trên vạn vật và trên mọi lý trí thụ
tạo. Duy chỉ Thiên Chúa mới có thể cho chúng ta biết đúng và biết đầy đủ
về đời sống Ba Ngôi là Cha, Con và Thánh Thần, cuộc sống mà chúng ta được mời
gọi đến chia sẻ, ngay từ đời này trong bóng tối đức tin và đời sau trong ánh
sáng vĩnh cửu.
Những
dây liên lạc hỗ tương đã cấu tạo nên Ba Ngôi tự nguyên thuỷ, cũng làm cho Ba
ngôi chung một bản tính Thiên Chúa, nói lên đời sống hạnh phúc thân mật của
Thiên Chá chí thánh, vượt trên mọi hiểu biết và suy lường của trí khôn loài
người (x. Dz-Sch 804). Vì thế chúng tôi cảm tạ Thiên
Chúa nhân lành, bởi vì có nhiều tín đồ trên thế giới cùng làm chứng cho Thiên
Chúa duy nhất trước mặt loài người mặc dù họ không biết đến mầu nhiệm Tam vị
chí thánh.
10. Còn chúng tôi, chúng tôi tin kính Đức Chúa Cha, Đấng
đã sinh ra Đức Chúa Con từ trước muôn đời; chúng tôi tin kính Đức Chúa Con là
Ngôi Lời Thiên Chúa tự đời đời đã được sinh ra; chúng tôi tin kính Đức Chúa
Thánh Thần là ngôi vị không được tạo thành, xuất phát bởi Đức Chúa Cha và Đức
Chúa Con. Như vậy, nơi Ba Ngôi Thiên Chúa, đồng vĩnh cửu, đồng bình đẳng (xc.
Dz SCh 75), chan hoà một cách viên mãn đời sống vinh quang và hạnh phúc bất
diệt của Thiên Chúa, vì thế luôn luôn “phải được tôn kính là một Thiên Chúa duy
nhất trong Ba Ngôi, và Thiên Chúa Ba Ngôi trong một bản thể duy nhất” (Dz-Sch. 75).
II. Đức Kitô
11. Chúng tôi tin kính Đức Giêsu Kitô là Chúa chúng
tôi. là Con Thiên Chúa. Người là Ngôi Lời, được sinh ra bởi Đức Chúa Cha tự
trước muôn đời, đồng bản tính với Đức Chúa Cha (Dz-Sch. 150), nhờ
Người mà muôn vật được tạo thành. Người đã nhập thể trong lòng Trinh nữ Maria
do quyền năng Đức Chúa Thánh Thần, và đã làm người: Người bằng Đức Chúa Cha về
bản tính Thiên Chúa, Người ở dưới Đức Chúa Cha về bản tính loài người,
(x. Dz.-Sch. 76): hai bản tính không trà trộn (một điều không thể
nào có được) nhưng hợp trong một ngôi vị duy nhất.
12. Người “đến cư ngụ giữa chúng ta ..., tràn đầy ơn
thánh và chân lý” (Ga 1,14). Người đã loan báo và thiết lập Nước Thiên Chúa,
Người mạc khải Chúa Cha cho chúng ta nơi chính bản thân mình. Người đã truyền
cho chúng ta một điều răn mới là yêu thương nhau như Người đã yêu thương chúng
ta (x. Ga 15,12). Người dạy chúng ta con đường đi đến Phúc thật của Tin Mừng đó
là: tinh thần khó nghèo, hiền từ, kiên nhẫn trong đau khổ, khao khát công
lý, hay thương xót, tâm hồn trong sạch, ý muốn hoà bình, cam chịu bách hại vì
công lý (x. Mt 5,1-10).
Người
đã thụ hình dưới thời quan Phongxiô Philatô, như Chiên Thiên Chúa gánh các tội
lỗi trần gian (x. Ga 1,29): Người đã chết trên thập giá vì chúng ta, đã mang
lại cho chúng ta ơn cứu độ bằng máu chuộc tội (x. Dt 9,23). Người chịu mai táng
trong mồ, đã chỗi dậy ngày thứ ba bởi quyền năng của mình, do sự phục sinh
Người nâng cao chúng ta lên để thông dự vào đời sống thần linh, tức là ơn
thánh. Người lên trời, từ đó Người sẽ lại đến trong vinh quang, để phán
xét kẻ sống và kẻ chết, mỗi người tùy theo công trạng của mình: những ai
sống cho tình yêu và thảo hiếu với Thiên Chúa sẽ được hưởng phúc đời đời, những
ai khước từ Thiên Chúa sẽ bị luận phạt muôn kiếp. Và Nước Người không bao giờ
cùng.
III. Đức Chúa Thánh Thần
13. Chúng tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa
và là Đấng ban sự sống, Người cùng được phụng thờ và tôn vinh cùng với Đức Chúa
Cha và Đức Chúa Con. Người đã dùng các tiên tri mà phán dạy, Người được cử đến
với chúng ta do Chúa Kitô sống lại và lên trời: Người soi sáng, linh hoạt, che
chở và điều khiển Hội thánh, Người thánh hoá các linh hồn miễn là họ không từ
chối ơn của Người. Người hành động trong thâm sâu của linh hồn, khiến cho họ có
thể đáp lại tiếng gọi của Chúa Giêsu “chúng con hãy nên trọn lành như Cha chúng
con ở trên trời là Đấng trọn lành” (Mt 5,48).
IV. Thánh Mẫu Maria
14. Chúng tôi tin Đức Maria là Mẹ trọn đời đồng trinh của
Ngôi Lời Nhập Thể, Thiên Chúa và là Đấng cứu chuộc chúng tôi, Chúa Giêsu Kitô
(x. Dz.-Sch. 251-252). Do một đặc ân, Đức Maria đã được cứu chuộc
một cách khác thường (x. Lumen gentium, 53), vì nhìn thấy công nghiệp
của Con mình mà Mẹ được giữ khỏi mọi vấn vương tội truyền (x. Dz.-Sch.
2803), và nhờ ân sủng đặc biệt Mẹ đã vượt lên trên tất cả mọi loài thụ tạo
(x. Lumen gentium, 53).
15. Liên kết chặt chẽ bằng sợi dây chặt chẽ và bất khả ly
với mầu nhiệm nhập thể và cứu thế (x. Lumen gentium, 53, 58, 61), đức thánh Trinh Nữ
Maria vô nhiễm nguyên tội, sau cuộc đời dương thế đã được đem cả linh hồn và cả
xác lên hưởng vinh quang trên trời (x. Dz.-Sch. 3903), và, giống như
Con chí thánh của mình đã sống lại từ cõi chết và đạt tới trước số phận dành
cho tất cả những người công chính. Chúng tôi tin đức Trinh Nữ Maria, Mẹ
Thiên Chúa, Eva mới, Mẹ Giáo Hội (x. Lumen gentium, 53, 56, 61, 63; x. AAS
LVI,1964, 1016), ở trên trời vẫn tiếp tục làm Mẹ các chi thể của Chúa Kitô,
cộng tác với việc sinh dưỡng và phát triển đời sống Thiên Chúa trong hết những
người đã được cứu chuộc (x. Lumen gentium 62).
V. Tội nguyên tổ
16. Chúng tôi tin mọi người đã phạm tội nơi ông Ađam,
nghĩa là tội do Adong phạm nhưng truyền hậu quả lại cho mọi người, vì mọi người
có cùng bản tính như ông. Tình trạng này không còn như trước khi bản tính con
người đã sa đoạ, được dựng nên trong sự thánh thiện và công chính, và con người
được thoát khỏi tội và cái chết. Vì thế bản tính sa đọa đã được truyền lại cho
tất cả mọi người, thiếu mất ơn thánh mà trước đây nó đã được trang điểm, năng
lực tự nhiên bị thương tổn, và bị cái chết thống trị. Đó là ý nghĩa câu nói:
mọi người đều sinh ra trong tội. Với Công đồng Triđentinô, chúng tôi xác nhận
rằng tội nguyên tổ đã truyền lại cùng với bản tính loài người, “không vì bắt
chước mà vì truyền sinh” và chính vì thế nó gắn với mỗi người” (Dz-Sch.
1513).
17. Chúng tôi tin Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, bằng hy
sinh thập giá đã cứu chuộc chúng ta khỏi tội tổ tông và khỏi mọi tội riêng mình
phạm, đến nỗi theo lời thánh Phao-lô, “ở đâu tội chất đống lên, ở đấy có ơn
thánh tràn ngập” (Rm 5,20).
18. Chúng tôi tuyên xưng lòng tin vào một phép rửa duy
nhất, do Đức Giêsu Kitô là Chúa chúng ta, đã thiết lập để tha tội. Vậy, phải
rửa tội cho cả trẻ em mới sinh, chưa thể phạm tội cá nhân, ngõ hầu khi sinh ra
đã thiếu ân sủng siêu nhiên, các em được sinh lại “bởi nước và bởi Chúa Thánh
Thần”, nghĩa là sinh vào đời sống thần linh trong Chúa Giêsu Kitô (x. Dz-Sch. 1514).
VI. Hội thánh
19. Chúng tôi tin kính Hội thánh duy nhất, thánh thiện,
công giáo và tông truyền, do Chúa Kitô đã xây dựng trên tảng đá Phêrô. Hội
thánh là Nhiệm Thể Chúa Kitô, vừa là xã hội hữu hình với các cơ quan phẩm trật,
vừa là một cộng đoàn thiêng liêng; đó là Hội thánh dưới trần gian, Dân Chúa
trên đường lữ hành, mang theo các ân trạch trên trời và Hội thánh được đầy tràn
ân phúc trên trời. Hội thánh là hạt giống và hoa trái đầu mùa của Nước Trời,
nhờ Hội thánh mà sự nghiệp và cuộc thụ nạn của Đấng cứu chuộc sẽ được tiếp tục
trải qua các thế hệ, và sẽ chỉ hoàn tất cách hoàn hảo trong vinh quang thiên
đàng (x. Lumen gentium, 8, 5).
Các bí tích
Theo
dòng thời gian, Chúa Giêsu thành lập Hội thánh của Người nhờ các bí tích trào
ra từ sự viên mãn của mình (x. Lumen gentium, 7, 11). Thật vậy, nhờ các bí
tích, Hội thánh làm cho mọi người được tham dự vào mầu nhiệm cái chết và sống
lại của Chúa Kitô, được lãnh ơn của Chúa Thánh Thần, Đấng ban sự sống và sức
hoạt động (Lumen gentium, 7, 12, 50). Hội thánh quả là
thánh thiện, mặc dầu bao gồm trong lòng mình nhiều người tội lỗi, bởi vì Hội
thánh không có sự sống nào khác là sự sống ơn thánh; nếu các phần tử nuôi dưỡng
nhờ ơn thánh thì chắc chắn là họ được nên thánh; nếu họ tách ra khỏi sự sống đó
thì sẽ mắc tội và những vết nhơ trong linh hồn, làm cho sự thánh thiện của Hội
thánh không được phát triển. Bởi vậy Hội thánh buồn sầu và đền tội vì các lầm
lỗi đó, tuy nhiên Giáo Hội có thẩm quyền giải thoát con cái mình khỏi các lầm
lỗi nhờ Máu Chúa Kitô và ân ban Chúa Thánh Linh.
Nhiệm vụ truyền bá chân lý
20. Thừa hưởng các lời Thiên Chúa hứa, là con của Abraham
theo Thánh Thần, là Israel mới, đầy lòng cung kính các vị tổ phụ và tiên tri,
được thiết lập trên nền tảng Tông đồ (x. Ep 2,20) để truyền bá lời hằng
sống từ đời nọ sang đời kia, được uỷ thác quyền chăn chiên nơi vị kế nghiệp
Thánh Phêrô và nơi các giám mục thông hảo cùng Toà Thánh, được Chúa Thánh Thần
luôn luôn trợ lực, Hội thánh có nhiệm vụ trông coi, giảng dạy, cắt nghĩa và
truyền bá Chân Lý mà Thiên Chúa mạc khải xưa kia cách ẩn hiện nơi các
tiên tri và một cách sung mãn nơi Chúa Kitô. Vì thế chúng tôi tin “tất cả Lời
Chúa đã được ghi chép và truyền lại, mà Giáo Hội dạy phải tin như điều mạc
khải, hoặc công bố trong thể như một tín điều hoặc qua huấn quyền thông thường
phổ quát” (x. Dz-Sch. 3011). Chúng tôi tin rằng đấng kế vị thánh Phêrô
được ơn bất khả ngộ khi ngài tuyên bố ex cathedra với tư cách
là chủ chiên và thầy dạy của toàn thể các tín hữu (x.Dz.-Sch. 3074); (chúng tôi
tin rằng) cả giám mục đoàn cũng hưởng ơn đó, khi đồng thi hành quyền giáo huấn
tối thượng với Đức Gíao Hoàng (x. Lumen gentium, 25).
Hội thánh duy nhất trong khác biệt
21. Chúng tôi tin rằng Hội thánh do Chúa Kitô sáng
lập và được Chúa Kitô cầu nguyện cho, là duy nhất trong mối dây đức tin, phụng
tự và hiệp thông phẩm trật. Giữa lòng Hội thánh, có sự đa dạng phong phú
về nghi điển phụng vụ, sự khác biệt hợp pháp về gia sản thần học và tâm linh
cũng như các kỷ luật địa phương; sự đa dạng không những không làm thiệt hại mà
còn biểu lộ sự hợp nhẩt (x. Lumen gentium, 23).
22. Công nhận rằng, ở bên ngoài cơ cấu Hội thánh Chúa
Kitô “còn có nhiều yếu tố của sự thánh thiện và chân lý: những yếu tố này là
của riêng Hội thánh Chúa Kitô cho nên thúc đẩy tiến tới sự hiệp nhất Công Giáo”
(x. Lumen gentium, 8), tin tưởng nơi Chúa Thánh
Thần đang thúc đẩy mọi người môn đệ Chúa Kitô lòng khao khát hiệp nhất
(x. Lumen gentium, 15), chúng tôi hy vọng các Kitô
hữu chưa hiệp nhất với Giáo Hội duy nhất có ngày sẽ gặp nhau trong một đoàn
chiên với một Chúa chiên.
23. Chúng tôi tin rằng Hội thánh là cần thiết cho phần
rỗi, bởi vì Chúa Kitô là trung gian duy nhất và là con đường cứu độ duy nhất,
đang hiện diện trong Giáo Hội là nhiệm thể Người (x. Lumen gentium, 14). Nhưng ý định cứu độ
của Thiên Chúa bao trùm hết mọi người: do đó những người thành tâm thiện chí
trên thế giới, tuy không được biết Phúc Âm Chúa Kitô và Hội thánh của Người,
nhưng vẫn đang thành tâm đi kiếm Thiên Chúa và nhờ ơn thánh, cố gắng tuân
hành ý Chúa được biết qua lương tâm chỉ dẫn, thì họ vẫn có thể đạt được ơn cứu
độ, mà chỉ Thiên Chúa con số những người đó là bao nhiêu (x. Lumen gentium, 16).
VII. Bí tích Thánh Thể
Chúa Kitô hiện diện trong hình bánh và rượu
24. Chúng tôi tin Thánh Lễ do linh mục cử hành thay mặt
Chúa Kitô, nhờ phép Truyền Chức, và được dâng nhân danh Chúa Kitô và Nhiệm Thể
của Người, là lễ hy sinh núi sọ hiện diện một cách bí tích trên bàn thờ. Chúng
tôi tin rằng cũng như xưa kia bánh và rượu được thánh hiến do Chúa Giêsu trong
bữa Tiệc Ly đã trở nên Thân Thể và Máu của Người sắp dâng làm của lễ trên thập
giá vì chúng ta, thì ngày nay bánh và rượu được thánh hiến do các linh mục cũng
trở nên Mình và Máu Thánh của Chúa Kitô đang ngự trị hiển vinh trên trời. Chúng
tôi tin rằng Chúa Giêsu hiện diện cách huyền nhiệm nhưng đích thực, thực sự và
bản thể, dưới những hình thể của bánh và rượu mà giác quan chúng ta nhìn thấy
(x. Dz.-Sch. 1651).
Bánh và rượu được biến thể
25. Vì vậy trong bí tích này Chúa Kitô chỉ có thể hiện
diện bằng cách biến đổi tất cả bản thể bánh thành Thân Thể của Người và tất cả
bản thể rượu thành Máu của Người, mặc dù giác quan chúng ta vẫn thấy giữ nguyên
các đặc tính của bánh và rượu. Sự biến đổi huyền diệu ấy được Giáo Hội diễn tả
đúng và thích hợp bằng thuật từ trans-substantiatio (biến đổi
bản thể). Khi tìm cách hiểu rõ mầu nhiệm này, các nhà thần học muốn giải thích
thế nào đi nữa thì cũng cần phải khẳng định rằng bản thể khách quan của bánh và
rượu sau khi đã được thánh hiến thì không còn tồn tại nữa, mà chỉ có là Thân Thể
và Máu đáng kính của Chúa Giêsu ngự thật dưới những hình thể của bánh và rượu
(x. Dz.-Sch. 1642, 1651-1654; thông điệp Mysterium Fidei ); Chúa Giêsu đã muốn như
thế để ban mình làm của nuôi chúng ta và liên kết chúng ta trong Nhiệm
Thể của Người .
Chúa Kitô hiện diện trên các bàn thờ
26. Sự hiện hữu của Chúa Kitô vinh hiển trên trời là duy
nhất, không thể phân chia và không thể nhân cấp, nhưng hiện diện cách bí tích
trên các bàn thờ ở nhiều nơi trên thế giới khi cử hành Thánh lễ. Sau
Thánh lễ, Người còn hiện diện trong bí tích cực thánh, nơi nhà tạm như là trung
tâm sống động của mỗi nhà thờ. Đối với chúng ta, thật là một bổn phận rất dịu
dàng được đến tôn kính, thờ lạy, trong Bánh Thánh mà mắt ta xem thấy, Ngôi Lời
nhập thể mà mắt ta lại không thấy, tuy Ngài không bỏ trời mà vẫn hiện diện
trước mặt chúng ta.
VIII. Cánh chung
Nước Thiên Chúa trên trần gian
27. Chúng tôi cũng tuyên xưng rằng Nước Thiên Chúa khơi
mào ở thế gian trong Hội thánh Chúa Kitô, nhưng không thuộc về thế gian này (x.
Ga 18,36), mà hình bóng sẽ qua đi (x. 1Cr 7,13); sự phát triển của Hội thánh
không thể so sánh với sự tiến bộ của văn minh, khoa học và kỹ thuật trần
thế, nhưng hệ tại ở việc tìm hiểu thấu đáo hơn “những sự phong phú khôn lường
của Chúa Kitô” (Ep 3,8), hy vọng mạnh mẽ hơn vào những của cải trên trời,
và đáp trả hăng say hơn tình yêu của Thiên Chúa, và ban phát rộng rãi hơn ân
sủng và sự thánh thiện cho loài người. Tuy nhiên, do cũng tình yêu Thiên Chúa
thúc đẩy, Giáo Hội luôn lo lắng mưu cầu điều tốt thế tạm đích thực của
nhân loại. Tuy Hội thánh không ngừng nhắc nhở con cái mình rằng họ không có quê
hương ở dưới thế này (x. Dt 13,14), nhưng cũng luôn giục giã mọi người, tuỳ
theo ơn gọi và phương tiện của mình, hãy góp phần vào việc xây dựng một
thế giới tốt đẹp hơn, dựa trên công lý, hoà bình, và hiểu biết huynh đệ giữa
mọi người, quảng đại giúp đỡ các anh em xấu số, cách riêng những nghèo
nàn túng quẫn. Vì thế mối quan tâm của Hội thánh, Hiền thê Chúa Kitô, đối với
những nhu cầu, những niềm vui và hy vọng, những nỗ lực và băn khoăn của con
người, không nhằm gì khác hơn là làm sao ở gần mọi người để toả chiếu ánh sáng
Chúa Kitô cho họ và để tập hợp tất cả trong Người là Đấng Cứu Tinh duy nhất của
họ. Mối quan tâm ấy không hề có nghĩa là Hội thánh hòa đồng vào hoạt động trần
thế, hoặc giảm bớt khát vọng mong đợi Chúa của mình và Vương quốc vĩnh cửu.
Giáo Hội bên kia thời gian
28. Chúng tôi tin vào cuộc sống muôn đời. Chúng tôi tin
rằng các linh hồn tất cả những người an nghỉ trong ơn thánh Chúa, hoặc còn phải
thanh lọc trong lửa luyện tội, hoặc khi lìa xác được Chúa đem lên đưa về thiên
đàng như người trộm lành xưa, tất cả đều họp Dân Chúa đã vượt ranh giới
sự chết; sự chết sẽ bị tiêu diệt vĩnh viễn vào ngày Phục sinh khi các linh hồn
ấy sẽ được kết hợp với thân xác.
Giáo Hội trên hạnh phúc thiên đàng
29. Chúng tôi tin rằng đoàn ngũ đông đảo các linh hồn tụ
họp chung quanh Chúa Giêsu và Mẹ Maria trên thiên đàng, họp thành Hội thánh
khải hoàn trên Trời, nơi đây trong hạnh phúc vĩnh cửu các vị được hưởng tôn
nhan Thiên Chúa tỏ tường (x. 1Ga 3,2; Dz.-Sch. 1000),
và tuy với cấp bậc và cách thế khác biệt, các vị được cùng các thiên thần
tham dự vào việc cai quản thần linh với Chúa Kitô trong vinh quang, và các vị
không quên cầu bầu cho chúng ta và nâng đỡ sự yếu hèn chúng ta trong tình tương
trợ huynh đệ (x. Lumen gentium, 49).
Đời sống vĩnh cửu
30. Chúng tôi tin vào sự hiệp thông của tất cả mọi tín
hữu trong Chúa Kitô, những người còn sống đời lữ thứ trần gian, những người đã
qua đời và còn ở đang được thanh luyện, các vị thánh trên trời, tất cả họp
thành một Hội Thánh; chúng tôi tin rằng trong mối hiệp thông hiệp này, tình yêu
lân tuất của Thiên Chúa và của các Thánh luôn luôn sẵn sàng nghe lời
chúng ta cầu xin, như Chúa Giêsu đã phán: “Hãy xin thì sẽ được”
(x. Lc 10,9-10; Ga 16,24). Vì thế vững vàng trong niềm tin
cậy chúng tôi trông đợi ngày kẻ chết sống lại và sự sống đời sau.
Chúc
tụng Thiên Chúa ba lần thánh. Amen.
Kết luận
Sau
khi đã long trọng đọc bản Kinh Tin Kính vào ngày 30/6 trước tiền đường thánh
Phêrô, Đức Thánh Cha đã có dịp giải thích ý nghĩa của Kinh Tin Kính trong các
buổi tiếp kiến chung vào các ngày 3/7; 10/7 và 30/10 cùng năm. Dưới một góc độ
nào đó, ta có thể nói được rằng bản kinh này đã phác họa một sơ đồ cho Sách
Giáo lý Hội thánh Công giáo (phần thứ nhất), nhằm trình bày đạo lý cổ truyền
với những ngôn ngữ thần học thời nay. Nên biết là Sách Giáo lý đã trích dẫn
Kinh Tin Kính Dân Chúa 14 lần[5].
Để kết
luận, chúng tôi xin dịch lời cầu nguyện xin ơn đức tin mà đức Phaolô VI đã đọc
ở buổi tiếp kiến chung ngày 30/10/1968, sau khi đã giải thích ý nghĩa của việc
tuyên xưng đức tin:
Lạy
Chúa, con tin: con muốn tin vào Chúa
Lạy
Chúa, xin cho đức tin của con được trọn vẹn, không dè giữ; xin cho
đức tin thấm nhập vào tư tưởng của con, nhận định của con về những công việc
của Chúa và của loài người.
Lạy
Chúa, xin cho đức tin của con được tự do: nghĩa là với sự tham gia
gắn bó, chấp nhận những sự khước từ và những nghĩa vụ mà đức tin đòi hỏi, và
biểu lộ quyết định cao vời nhất của bản thân qua câu nói: “Lạy Chúa, con tin
vào Chúa”.
Lạy
Chúa, xin cho đức tin của con được chắc chắn; chắc chắn nhờ những
bằng chứng thích hợp và nhờ chứng tá nội tâm của Thánh Linh, chắc chắn
nhờ ánh sáng trấn an của nó, nhờ kết luận an hòa của nó, nhờ sự hấp thụ yên hàn
của nó.
Lạy
Chúa, xin cho đức tin của con được vững mạnh; không sợ hãi những
vấn đề trái nghịch, và đem thêm kinh nghiệm cho cuộc sống khao khát ánh sáng;
không sợ hãi những chống đối của kẻ tranh biện, chống đối, khước từ, phủ nhận
nó; nhưng được kiên cường trong bằng chứng của chân lý của Chúa, đương đầu với
sự chỉ trích, được củng cố trong sự khẳng định liên tục vượt lên những khó khăn
của sự biện bác nằm trong cuộc sống trên đời này.
Lạy
Chúa, xin cho đức tin của con được vui tươi và mang lại an
bình và hoan hỉ cho tinh thần, khiến nó có khả năng cầu nguyện với Thiên Chúa
và giao tiếp với loài người, ngõ hầu chiếu tỏa hạnh phúc nội tâm nơi cuộc đàm
đạo thiên linh hay trần tục.
Lạy
Chúa, xin cho đức tin của con được năng động, và mang lại cho đức
ái những lý do chiếu tỏa đạo đức, nhờ thế nó trở thành tình bạn chân thật với
Chúa, và trở nên chứng tá liên tục cho Chúa trong các việc làm, trong những đau
khổ, và nuôi dưỡng hy vọng đang khi chờ đợi sự mạc khải cuối cùng.
Lạy
Chúa, xin cho đức tin của con được khiêm tốn, không tự hào vì được
lập trên kinh nghiệm của tư tưởng hay cảm tình của con, nhưng biết nương tựa
vào chứng tá của Thánh Linh, và không có bảo đảm nào tốt hơn là ngoan ngoãn với
Truyền thống và với uy tín của huấn quyền Hội thánh Amen.
[1] Hồi đó, ngày 30 tháng 6 kính nhớ
thánh Phaolô sau lễ thánh Phêrô. Với cuộc cải tổ lịch phụng vụ (14/2/1969), hai
thánh tông đồ được mừng chung một ngày 29/6 như hiện nay.
[2]Những chi tiết này do hồng y Georges
Cottier O.P., người lo việc xuất bản các tác phẩm của hồng y Charles Journet
(1891-1975), cung cấp cho ký giả Gianni Valente, trong cuộc phỏng vấn đăng trên
nguyệt san Trentagiorni, tháng 4 năm 2008. Jacques Maritain
(1882-1973) là một triết gia công giáo nổi tiếng, được đức Phaolô VI trao sứ
điệp gửi giới trí thức vào lúc bế mạc công đồng Vaticanô II.
[3]N.3: “quamvis definitio dogmatica vere
proprieque non sit nominanda, tamen formulam Nicaenam, quoad rerum summam,
repetit, nonnullis explicationibus, quas spirituales nostrae huius aetatis
conditiones postulant: formulam dicimus immortalis traditionis Ecclesiae
sanctae Dei”.
[4]Ngoài sự cần thiết của việc tuyên xưng
đức tin để được cứu rỗi, ngày nay việc tuyên xưng đức tin gặp vài khó khăn đặc
biệt vì : 1/ tư tưởng duy lý chỉ chấp nhận những gì hợp với lý trí; 2/ thuyết
hoài nghi không chấp nhận chân lý tuyệt đối; 3/ những học thuyết chú giải muốn
thích nghi mạc khải cho hợp với tâm thức thời đại
[5]Nên biết là đức Gioan Phaolô II đã
giải thích Kinh Tin Kính trong loạt bài huấn giáo kéo dài từ năm 1985 đến năm
2000. Loạt bài này được mở đầu với những huấn giáo về đức tin (từ 13/3 đến
19/6/1985).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét