TÊRÊSA KIỀU DIỄM
HP: 3LK
ĐỀ
BÀI:
1.Sự vâng phục được thúc
đẩy bởi động lực siêu nhiên, nghĩa là người tu sĩ vâng phục vì đức tin, cậy, mến
chứ không phải theo thị hiếu tình cảm. Em hãy phân tích, giải thích ý tưởng
này.
2.Em hãy trình bày rõ nét
ý tưởng “Đức vâng phục luôn luôn mang 2 chiều kích cá nhân và cộng đoàn”.
TRÌNH
BÀY
Câu 1: Sự
vâng phục được thúc đẩy bởi động lực siêu nhiên, nghĩa là người tu sĩ vâng phục
vì đức tin, cậy, mến chứ không phải theo thị hiếu tình cảm theo nhân đức đối thần
như sau:
-Đối với đức tin: Khi
con tin rằng qua mọi khoảnh khắc trong ngày sống, mọi người con gặp gỡ, mọi việc
con làm, mọi lời con nói, tất cả mọi thứ chung quanh con đó chính là sự quan
phòng của Thiên Chúa, sự thông chuyển cho con thánh ý của Thiên Chúa thì con
không thể nào mà không vâng phục thánh ý Chúa gửi đến cho con mỗi ngày. Như thế
là đã chứng minh rằng: đức tin là nền tảng của đức vâng phục.
Khi tuyên khấn vâng phục,
con được hội nhập vào cộng đoàn và cộng đoàn này có một lịch sử, nếp sống, những
thành viên liên đới với nhau và mang một nét mặt thật phàm tục. Thế nhưng, đây
chính là nhà, quê hương, vùng đất mà Chúa chỉ cho con thấy, Ngài mời gọi con đến
đây để gặp gỡ Ngài với sự chân thành quảng đại và thực sự liên đới với chị em trong
cùng một sứ vụ.
Khi con được tự do gia nhập
vào cuộc sống của cộng đoàn thì cũng là lúc con phải chấp nhận cơ cấu hình
thành cộng đoàn, chấp nhận sự linh hoạt, cách hướng dẫn và cách xử lý các vụ
xung đột, vốn dĩ chẳng hề thiếu vắng trong đời sống cộng đoàn.
Khi vâng phục bề trên, không
phải là vì bề trên có ơn bất khả ngộ, không sai lầm, nhưng vì bề trên là người
tôi tớ phục vụ ý định Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa mới là Đấng quy tụ tất cả mọi
người lại với nhau. Ngài giúp con sống ơn gọi qua mọi tìm kiếm, lựa chọn, trong
cả những gì có thể là nặng nề đau xót, cũng như trong mọi hồng ân mà Ngài ưu ái
ban cho. Nhờ sự vâng phục bề trên trong lòng tin, con ý thức hơn việc đang sống
ơn gọi qua những định hướng, những lựa chọn diễn tả ơn gọi của mình.
Ví dụ điển hình khi sự vâng
phục trái với ý mình, sẽ gây nhiều đau khổ, nhưng cũng không kém phần lợi ích.
Bởi lẽ Chúa có thể muốn một điều gì khác đó mà mình chưa biết. Cho nên, thay vì
tẩy chay, chống đối, nổi loạn, kết bè kết đảng, hoặc vâng phục hiểu theo nghĩa
“chịu vậy” và thực thi cách miễn cưỡng, thiếu tinh thần trách nhiệm, con được mời
gọi hãy vâng phục trong đức tin. Chính thái độ vâng phục này sẽ có được một tầm
ảnh hưởng trên chính bản thân mình và trên những người khác.
-Đối với đức cậy:
Nhờ đức cậy, con cần sẵn sàng cậy trông, phó thác và dâng hiến đời mình cho
Thiên Chúa vì ý Chúa được bày tỏ nơi các tạo vật và con luôn có niềm hy vọng rằng
nhờ chúng mà Thiên Chúa ban cho con hạnh phúc hoàn toàn. Và như vậy đức tin là
linh hồn của đức vâng phục.
Hình ảnh của ông Apraham
đem con là Isaac lên núi sát tế theo lệnh Chúa truyền chứng minh thế nào là
vâng phục trong đức tin và đức cậy. Mỗi người đều có một cậu bé Isaac chễm chệ
ngự trong trí, trong lòng mà mình yêu, mình quý, mình thiết thân gắn bó. Cậu bé
Isaac ấy mang tên gọi là tính tự ái, ích kỷ, là lập trường, cách sống, là kế hoạch,
nhiệm sở, địa vị, ý riêng của mình v.v…Có khi Chúa mời gọi ta dâng cậu bé Isaac
ấy cho Chúa qua quyết định của bề trên, không biết con có dám tin tưởng, cậy
trông, phó thác mà dâng cho Ngài không? Tùy ở chỗ con trả lời có hay không mà lời
khấn vâng phục sẽ sáng lên hay lu mờ đi trong hành trình đời tu của mình.
-Đối với đức ái:
Đức vâng phục phải được hiểu và thực hành trong đức ái. Nói khác đi, vâng phục
là cách biểu lộ lòng yêu mến: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy” (Ga 14,
23). Trong đức vâng phục, dâng ý chí của mình để hiệp nhất với ý Chúa, như Đức
Giêsu đã chọn tuân theo thánh ý Chúa Cha (Mt 26, 39). Dâng ý chí, là một hy lễ
thiêng liêng, nhờ đó, con được kết hợp sâu xa trong tình yêu với Thiên
Chúa.
Cốt lõi của đức vâng phục
là thực thi thánh ý Thiên Chúa, để làm sao tình yêu được thể hiện trong bản
thân mỗi người trong cộng đoàn, xã hội và Giáo hội. Điều làm cho hành vi vâng
phục trở thành nhân đức, đức ái là tình yêu thương thực sự. Vâng phục thật mau
mắn và tuyệt đối mà không có mục đích là thi hành ý Chúa, hướng tới tình yêu
thì vâng phục đó không phải là nhân đức, cũng không phải là đức vâng phục. Cũng
vậy, vâng phục vì sợ hãi, vì muốn lấy lòng bề trên, hoặc tuân lệnh cách miễn cưỡng
thì đó không phải là đức vâng phục. Một hành vi vâng lời mà phản lại tình yêu
thì không phải là nhân đức. Tình yêu vẫn là yếu tố cốt lõi và quan trọng để làm
cho một hành động có giá trị trước mặt Chúa. Thánh Phaolô viết: “Giả như tôi có
nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có
đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng” (1Cr
13,1). Cho dù con có giữ luật từng ly từng tí, luôn tuân lệnh bề trên một cách
tuyệt đối mà không có tình yêu thì những hành động ấy chẳng có giá trị trước mặt
Thiên Chúa. Do đó, vâng phục chỉ thực sự là nhân đức khi có tình yêu bên trong.
Câu 2: “Đức vâng phục
luôn luôn mang 2 chiều kích cá nhân và cộng đoàn”.
Mục đích của đức vâng phục
là thực thi thánh ý Thiên Chúa, đồng thời duy trì và phát triển trật tự tốt đẹp
trong đời sống cá nhân cũng như trong cộng đoàn để cùng nhau thi hành sứ vụ. Do
đó, đức vâng phục luôn mang hai chiều kích: cá nhân và cộng đoàn. Hai chiều
kích đó phải hòa hợp với nhau, vừa phải làm cho đời sống cá nhân tốt đẹp, vừa
phải mang lại lợi ích cho cộng đoàn. Tất cả đều phải được thực hiện trong tinh
thần yêu thương của đức ái Kitô giáo.
Vì đức vâng phục mang hai
chiều kích cá nhân và cộng đoàn nên cần quan tâm đến con người và sứ vụ. Sẽ rất
khó để giữ được thế quân bình, trung dung giữa hai điểm ấy. Nếu quá nhấn mạnh đến
con người mà không để ý đến lợi ích chung của cộng đoàn, thì sẽ xảy ra tình trạng
ly tâm, phân mảnh, cá nhân chủ nghĩa, mỗi người tự vạch ra sứ mạng của riêng
mình, cộng đoàn sẽ mất tính cộng đoàn đích thực, sẽ chỉ là một nhóm người sống
với nhau theo tình bạn, chứ không còn phải là tập họp những người cùng chí hướng,
cùng nhắm đến một sứ vụ chung. Ngược lại, nếu quá nhấn mạnh vào sứ mạng mà
không lưu tâm đến hoàn cảnh riêng của con người, thì cuối cùng, cả con người và
sứ vụ đều bị tổn hại, và do đó cũng làm cho kế hoạch của Thiên Chúa không được thành
toàn.
Tu sĩ chỉ có thể thực hiện
hữu hiệu đức vâng phục trong sự hiệp thông với Chúa và giữa chị em với nhau nên
vì thế phải có một cố gắng tự huấn luyện liên tục trong tình thương, sự thật,
dưới ánh sáng của ơn Chúa Thánh Linh tác động trên mỗi người và trên cộng đoàn.
Nếu được đón nhận và sống như vậy, thì đức vâng phục sẽ làm cho nhân phẩm và sự
tự do của người tu sĩ được trưởng thành chín chắn, được sinh hoa kết quả phong
phú theo tinh thần Tin Mừng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét