Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2023

ĐỪNG SỢ - HÃY VỮNG TIN

Ngày 27 tháng 1 năm 2024

Têrêsa Nguyễn Kiều Diễm

 

Tin Mừng: Mc 4, 35-41

35 Hôm ấy, khi chiều đến, Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Chúng ta sang bờ bên kia đi!” 36 Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Người đi, vì Người đang ở sẵn trên thuyền; có những thuyền khác cùng theo Người. 37 Một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước. 38 Trong khi đó, Đức Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ đánh thức Người dậy và nói: “Thầy ơi, chúng ta chết mất, Thầy chẳng lo gì sao?” 39 Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ. 40 Rồi Người bảo các ông: “Sao nhát thế? Anh em vẫn chưa có lòng tin sao?” 41 Các ông sợ hãi kinh hoàng và nói với nhau: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”

Suy niệm:

Xin mời bạn cùng với tôi, chúng ta cùng đặt mình vào khung cảnh của một buổi chiều, sau khi đã giảng dạy cho dân chúng xong, Đức Giêsu bảo các Tông đồ xuống thuyền vượt biển hồ Tiberia sang bờ bên kia. Biển hồ này rất thường xuyên có bão tố cách bất ngờ nhất là vào buổi chiều hay ban đêm. Khi ra giữa biển, một cơn bão tố nổi lên, nước tràn vào thuyền, các môn đệ hoảng hốt, cuống cuồng, hoang mang, lo lắng và sợ hãi. Trong khi đó, sau một ngày rao giảng mệt mỏi, Đức Giêsu nằm gối đầu ở đàng lái mà ngủ, như không có sự gì xảy ra. Các ông sợ hãi đánh thức Ngài và còn có sự trách cứ: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?” Đức Giêsu thản nhiên, bình tĩnh đứng lên nói một lời vắn tắt: “Im đi, câm đi”, tức thì gió liền tắt, biển lặng như tờ. Sau đó Đức Giêsu vừa trách các môn đệ, vừa khuyên họ đừng sợ, hãy vững tin vào quyền năng của Ngài.

Thật là thú vị dường bao khi chúng ta được chứng kiến cảnh Chúa dẹp yên bão tố giữa biển khơi. Phép lạ Chúa làm thật bất ngờ. Sứ điệp Tin Mừng của Maccô khơi dậy nơi tâm hồn chúng ta sự ý thức về quyền uy và sức mạnh của Chúa Giêsu trên sức mạnh của thiên nhiên.

Chúng ta đang sống giữa biển đời với biết bao là sóng gió bão tố ập đến cách bất ngờ mà chúng ta không thể lường trước, biết bao nhiêu là khó khăn, gian nan và thử thách, tâm hồn thường chao đảo, chèo chống vất vả và tưởng chừng như đắm chìm.

Lạy Chúa Giêsu, xin nâng đỡ cuộc đời chúng con, để chúng con vượt thắng những gian nan thử thách trong cuộc sống, xin ban thêm niềm tin để chúng con nhận ra Chúa đang hiện diện nơi cuộc đời chúng con, xin cho chúng con ý thức rằng Chúa vẫn luôn luôn hiện diện trong cuộc đời chúng con trong từng khoảnh khác của cuộc sống, xin cho chúng con biết vững tin, cậy trông và phó thác vào quyền năng của Chúa vì chúng con biết rằng Chúa vẫn đang đưa con thuyền Giáo Hội về đến bến bình an.

 

Bài Hát Minh Họa: HÃY VỮNG TÂM – MỸ TÂM

https://www.youtube.com/watch?v=NKjAcO1sJ00

 

  NỮ TU TÊRÊSA KIỀU DIỄM (TVT)

NGÀY CỘNG ĐOÀN VÀ TÌNH HUYNH ĐỆ

 

Chia sẻ Ngày Cộng đoàn 2024

NGÀY CỘNG ĐOÀN VÀ TÌNH HUYNH ĐỆ

  I.    NGUỒN GỐC – MỤC ĐÍCH Ý NGHĨA NGÀY CỘNG ĐOÀN

1.Từ Tổng hội Caleruega năm 1995

Tổng hội Dòng Anh Em Giảng thuyết tổ chức tại Caleruega năm 1995 đã đề nghị thiết lập NGÀY CỘNG ĐOÀN HÀNG NĂM: để lượng giá công tác tông đồ của anh em và phát triển việc tông đồ của cộng đoàn; mỗi anh em dự phóng công tác cho năm tới; lập ngân sách cho cá nhân và cộng đoàn. Ngày cộng đoàn là thời điểm thuận lợi để cổ võ và khuyến khích anh em làm việc chung theo nhóm, theo cộng đoàn[1].

2.Đối với Hội dòng chúng ta

Trong kỳ Tổng hội IV-1998, Hội dòng đã chọn ngày 01/01 hàng năm là “Ngày Cộng đoàn” và Tổng hội V - 2002 tiếp tục duy trì[2].

Sau 8 năm thực hiện, năm 2006 Hội dòng chính thức đưa “Ngày Cộng đoàn” vào Nội Quy: Ngày 01.01 là Ngày Cộng đoàn: tại mỗi cộng đoàn, chị em xin lễ, dành thời gian cầu nguyện cho nhau, họp mặt huynh đệ, tổng kết năm cũ và chuẩn bị dự phóng năm mới[3].

Tháng 7/2022, Tổng hội X đề nghị tu chính Nội quy: Ngày 01.01 là ngày cộng đoàn. Tại mỗi cộng đoàn, chị em xin lễ, dành thời gian cầu nguyện cho nhau và họp mặt huynh đệ.

 Kể từ năm 1998 đến nay, các cộng đoàn đã tổ chức Ngày Cộng đoàn 24 lần. Nhân dịp “Ngày Cộng đoàn lần thứ 25 – Năm 2024” sắp tới, tôi xin có đôi lời chia sẻ với chị em, ước mong chúng ta tổ chức Ngày Cộng đoàn thật sự ý nghĩa.

II.    NGÀY CỘNG ĐOÀN VÀ TÌNH HUYNH ĐỆ

1.   Cộng đoàn: nền tảng của đời sống Đa Minh

Chúng ta biết: nền tảng của đời sống Đa Minh chính là cộng đoàn. Phẩm chất đời sống cộng đoàn chuẩn bị và thúc đẩy sứ vụ tông đồ, và ngược lại, sứ vụ tông đồ cũng được định hình và làm cho phong phú đời sống cộng đoàn. Một đời sống cộng đoàn tốt sẽ nuôi dưỡng và làm cho sứ vụ tông đồ nên khả tín.

Theo thời gian và sự phát triển về mặt xã hội, các dòng tu hiện nay nói chung và Hội dòng chúng ta nói riêng được hình thành và phát triển cách đa dạng, phong phú từ những con người với những khác biệt về văn hóa, sở thích, tính cách. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt và giúp nối kết chúng ta với nhau trong Hội dòng, đó chính là lời mời gọi dâng hiến đến từ Đức Kitô, là linh đạo Đa Minh và đặc sủng của Hội dòng.

         Từ giây phút quyết định vào Dòng rồi từng bước tiến trong hành trình dâng hiến, chúng ta đều sống trong một cộng đoàn. Đặc biệt khi tuyên khấn, lời khấn vâng phục dẫn đưa chúng ta vào đời sống cộng đoàn trong Hội dòng. Cộng đoàn là môi trường giúp ta bảo toàn, phát triển và trưởng thành đời tu. Môi trường chính yếu của chúng ta không phải là đường lộ, cũng chẳng phải là một ký túc xá hay nhà trường nhà trẻ, nhưng là cộng đoàn tu viện, tu xá. Từ đó, căn tính của chúng ta bao hàm một ý nghĩa rõ ràng của sự “thuộc về nhau” mà chúng ta cảm nhận như là một ân huệ tuyệt vời[4], để chúng ta có thể nói: “Cộng đoàn này đích thực là cộng đoàn của tôi. Hội dòng này là Hội dòng của tôi”.

2.   Tổ chức sinh hoạt Ngày Cộng đoàn

·    Ngày Cộng đoàn: xin lễ và dành thời gian cầu nguyện cho nhau.

  Đời sống cộng đoàn Đa Minh không chỉ giản lược vào việc sống chung theo một chương trình ấn định. Nhưng hơn thế và trước hết, phải là một cộng đoàn hiệp thông trong cầu nguyện. Cộng đoàn gồm những chị em được Thiên Chúa mời gọi quy tụ thành một gia đình thực sự nhân danh Chúa, nên phải được củng cố bởi sự hiện diện của Chúa. Một cộng đoàn lơ là đời sống thiêng liêng, thiếu vắng Thiên Chúa thì khó, thậm chí không thể sống tình huynh đệ.

 Mỗi ngày, qua thánh lễ, chúng ta được hiệp thông và chia sẻ sức sống thánh thiêng với nhau trong hy tế Thánh Thể. Do đó, Thánh Thể trở nên mối dây liên kết tình yêu giữa chị em, là thần lương bồi dưỡng đời thánh hiến và là nguồn phát sinh nghị lực tông đồ phong phú nhất. Hiến pháp số 54.3 nhắc nhở chúng ta: ngoài việc cử hành phụng vụ chung, hàng ngày chị em cầu nguyện cho nhau. Mỗi chị em tiếp tục đem theo cộng đoàn cả trên đường đi, trong việc học hành, khi làm bổn phận, cùng với những hy sinh hãm mình, những suy niệm, những lời nguyện tắt cầu nguyện cho chị em.

Thực tế đời sống, có những điều làm chúng ta chùn bước hoặc thiếu niềm vui. Biết bao điều chúng ta mong ước cho chị em đổi mới cũng như muốn canh tân cộng đoàn, nhưng chúng ta bất lực! Vậy Ngày Cộng đoàn, chúng ta dâng lễ với ý chỉ cầu nguyện đặc biệt cho chị em, dành thời gian cầu nguyện cho nhau nhiều hơn, tha thiết hơn, với ý thức và với tình yêu thương chân thành hơn. Lòng thương cảm tuôn trào thành cầu nguyện. Người anh em mà ta nhớ tới trong lúc cầu nguyện là người nằm sâu trong trái tim ta"[5]. Lời cầu nguyện chân thành sẽ khiến phép lạ xảy ra và giúp con tim chúng ta không bị chai cứng, sẽ biến đổi Giáo hội, biến đổi cộng đoàn”[6].

  Tôi mong muốn: Chúng ta không chỉ nhớ đến và cầu nguyện cho những người thân thương, nhưng Ngày Cộng đoàn, chúng ta hãy chân thành cầu nguyện cách riêng cho những người mà chúng ta cảm thấy khó thương, dễ va chạm và đang bất bình! Đó là chúng ta đang thực thi lòng thương xót và phần nào tiếp nối mầu nhiệm Nhập thể khi mang tới hơi ấm bình an và niềm vui nội tâm cho chính bản thân ta trước, sau là cho chị em. Lời cầu nguyện cùng với sự hy sinh, như một chất kháng sinh kín đáo khó thấy, nhưng lại thật sự cần thiết cho những thương tổn nội tâm ít nhiều mà chị em đang mang và gánh chịu.

·    Ngày cộng đoàn, chị em họp mặt huynh đệ.

Trước hết, Ngày Cộng đoàn: chúng ta tìm những hình thức giúp ôn lại và suy tư về Lịch sử Cộng đoàn, về những đặc nét truyền thống tốt đẹp, những giai đoạn khó khăn và những nỗ lực khắc phục, những kỷ niệm và cảm xúc vui buồn, về những chị em đi trước đã góp phần xây dựng để có cộng đoàn hôm nay.

Tiếp đến, chắc chắn trong đời sống hàng ngày, khi phải đối diện nhiều thách đố, bị chi phối hoặc áp lực do yêu cầu từ các hoạt động sứ vụ, mục vụ, chúng ta gặp không ít khó khăn trong tương quan với nhau, làm ảnh hưởng bầu khí và giảm đi sự hài hòa trong các sinh hoạt chung. Ngày Cộng đoàn, không nhất thiết phải tổ chức những chuyến đi chơi xa hay đầu tư những sinh hoạt hoành tráng đòi hỏi tập trung sức lực gây thêm mệt mỏi, cũng không là những cuộc hội họp mang tính nệ hình thức. Điều cần là hãy tạo cho nhau những không gian và dành thời gian cần thiết cho việc gặp gỡ huynh đệ, những cuộc trao đổi chân thành, hóa giải căng thẳng, chấm dứt giận hờn và lấy lại hòa khí.

Đời sống huynh đệ cộng đoàn là hoa trái của một tiến trình huấn luyện liên tục, của sự khiêm tốn và của những tấm lòng quảng đại, bao dung nhân hậu, dám “tha thứ cho kẻ làm khốn mình”. Mỗi chúng ta đều là tội nhân, bất toàn và nhiều yếu đuối, nhưng chúng ta tin vào tính bản thiện và thiện chí của nhau, chính chúng ta cũng cần được chị em tha thứ.

Ngày Cộng đoàn, chúng ta cần tấm lòng trắc ẩn để lưu tâm và nhạy bén nhận ra chị em trong cộng đoàn chúng ta đang thiếu và cần sự quan tâm. Có chị em nào đang gặp khó khăn hay đang trong trạng thái bất ổn không? Những điều này khả dĩ phát sinh từ những khó khăn trong tương quan với nhau hoặc sự yếu đuối của chính bản thân chị em. Chúng ta rất cần nâng đỡ những chị em đó với tấm lòng nhân hậu, kiên trì nối kết những khoảng cách nhằm gia tăng sự hiệp thông.

Ngày Cộng đoàn, chúng ta cũng được mời gọi nhìn lại và biểu lộ sự quan tâm chăm sóc cách trân trọng và chu đáo với các chị em bệnh tật, cao niên. Đó hẳn là sự nâng đỡ tinh thần mà chúng ta cần trao tặng, để tình thương trở thành nguồn trợ lực trước những thử thách của tuổi già và bệnh tật mà chị em đang trải qua.

Thật dễ dàng chúng ta đã biết nguồn gốc và mục đích ý nghĩa của Ngày Cộng đoàn, có nhận thức tầm quan trọng của đời sống cộng đoàn và thế nào là sống tình huynh đệ Đa Minh. Chúng ta cũng ý thức sự cần thiết của việc cầu nguyện, sự chân thành đối thoại, bao dung tha thứ cho nhau… Nhưng phận người yếu đuối, từ lý thuyết đến thực hành là cả một đường dài khó khăn biết bao! Chúng ta tha thiết khẩn nài Chúa Hài Nhi ban cho chúng ta tâm hồn đơn sơ chân thành, khiêm nhường và cởi mở, cùng với sự can đảm dấn thân với lòng trắc ẩn của Chúa Giêsu. Hy vọng mỗi chúng ta sẽ đóng góp phần của mình vào việc xây dựng cộng đoàn thăng tiến, đáp ứng được lời Thiên Chúa mời gọi chúng ta sống cộng đoàn huynh đệ.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến và toả ánh quang minh của Ngài! Xin Chúa biến đổi cộng đoàn chúng con, làm cho cộng đoàn chúng con thực sự là nơi “tràn ngập  niềm vui và Thánh Thần”. Xin cho mỗi chị em chúng con được cảm nghiệm thật sự LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA dành cho chúng con, để chúng con tiếp tục truyền rao lòng trắc ẩn của Chúa cho những người chúng con gặp gỡ.

 * MJ. Vũ Thị Chín

 



[1] x.Caleruega 1995, 44.

[2] CVTH IV – 1998, 79. & CVTH V – 2002, 22.

[3] NQ 2006, 37.6.

[4] x.Bogota 2007, 162

[5] BTTQ Vincent de Couesnongle.

[6] ĐTC Phanxico.

Thứ Năm, 28 tháng 12, 2023

TẠI SAO PHẢI LẦN HẠT MÂN CÔI?

 TẠI SAO PHẢI LẦN HẠT MÂN CÔI?

Tại sao phải lần hạt Mân Côi? Lần hạt có phải chỉ là việc lặp đi lặp lại? [1]

Việc lần hạt để đếm những lời kinh rất phổ biến trong nhiều tôn giáo. Trong Kitô giáo, Giáo hội Chính Thống có tràng chuỗi Chúa Giêsu. Trong Giáo hội Công giáo, có nhiều chuỗi hạt khác nhau, như: chuỗi Lòng Thương Xót Chúa, chuỗi Hài Nhi Giêsu ở Praha, chuỗi Tổng lãnh Thiên thần Micae, và tất nhiên cũng có chuỗi Mân Côi. Chuỗi Mân Côi là một á bí tích, nên cần được một linh mục hoặc phó tế làm phép. Khi được làm phép, chuỗi Mân Côi được dành riêng cho việc thiêng liêng.

Thánh Đa Minh là người được cho là đã nhận chuỗi Mân Côi đầu tiên. Ngài đã nhận chuỗi này khi Đức Mẹ hiện ra. Đức Mẹ đã đưa cho ngài chuỗi hạt Mân Côi như một khí cụ thiêng liêng chống lại dị giáo Albigensê, vốn từ chối nhân tính của Đức Kitô. Lời rao giảng của thánh nhân không thể thay đổi những sai lạc phổ biến trong thế kỷ XIII; nhưng chuỗi Mân Côi giản dị lại có thể giúp các tín hữu suy niệm các mầu nhiệm Vui, Thương, Mừng của Chúa Giêsu Kitô, và đã thuyết phục người dân Tây Ban Nha và Pháp tin rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa và là người thật, trọn vẹn nhân tính và thiên tính.

·    Năm sự Thương đặc biệt nhấn mạnh đến nhân tính, vì Chúa Giêsu cảm thấy đau đớn thực sự và chết một cái chết thực sự mà chỉ có con người mới có thể trải qua.

·    Năm sự Mừng làm nổi bật thiên tính của Chúa Giêsu, vì chỉ có Thiên Chúa mới có thể trỗi dậy từ cõi chết và lên trời.

·    Năm sự Vui nối kết trời với đất, Thiên Chúa và con người, trong đó, Chúa Giêsu có một người Mẹ nhân loại thực sự, Mẹ Maria, nhưng Mẹ đã được thụ thai một cách kỳ diệu nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần.

Chuỗi Mân côi bao gồm hai mươi mầu nhiệm tập trung vào cuộc đời của Chúa Kitô. Những mầu nhiệm này đã được dạy cho những người mù chữ, và chẳng mấy chốc họ hiểu ngay đức tin của mình. Một bức tranh nổi tiếng được lưu giữ trong một nhà thờ ở Pompeii được cho là miêu tả phép lạ Đức mẹ Mân Côi. Trong bức tranh, Đức Mẹ trao chuỗi Mân Côi cho Thánh Đa Minh và Thánh Catarina Siena. Cùng với Thánh Đa Minh, Thánh Catarina là đấng đồng sáng lập Dòng Nữ Đa Minh.

Hai mươi mầu nhiệm Mân Côi được chia thành bốn phần.

·    Đầu tiên là năm mầu nhiệm Vui, bao gồm truyền tin, thăm viếng, Giáng sinh, dâng Chúa Giêsu trong đền thờ và tìm thấy Chúa trong đền thờ.

·    Phần thứ hai tập trung vào cuộc khổ nạn của Chúa Kitô, được gọi là những mầu nhiệm Thương, bao gồm Chúa Giêsu chịu hấp hối trong vườn Dầu, chịu đánh đòn, chịu đội mão gai, vác thánh giá và chịu đóng đinh.

·    Phần thứ ba là những mầu nhiệm Mừng bao gồm phục sinh, thăng thiên và Chúa Thánh Thần hiện xuống, Đức Mẹ được rước lên trời.

·    Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã dâng năm 2003 cho Chuỗi Mân Côi và đã sáng tác năm mầu nhiệm Sáng sau cùng, được gọi là Các mầu nhiệm Sáng, bao gồm Chúa chịu phép rửa, tiệc cưới Cana, Chúa Giêsu rao giảng Nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu biến hình và lập bí tích Thánh Thể.

Chuỗi Mân Côi hiện thời có năm mươi hạt, và mỗi hạt tương ứng với một kinh. Lần chuỗi Mân Côi bắt đầu bằng dấu thánh giá với Kinh Tin Kính các Tông Đồ, tiếp đến là một Kinh Lạy Cha, ba Kinh Kính Mừng và một Kinh Sáng Danh. Sau đó, mầu nhiệm đầu tiên được xướng lên, cùng với một Kinh Lạy Cha, mười Kinh Kính Mừng và một Kinh Sáng Danh sau đó. Việc này được lặp lại năm lần và kết thúc với Kinh Lạy Nữ Vương. Chuỗi Mân Côi có thể là sự lặp đi lặp lại nhàm chán nếu không được cầu nguyện theo đúng tinh thần của nó. Khi một người suy gẫm về từng mầu nhiệm, các Kinh Kính Mừng trở thành khung cảnh để họ suy gẫm về mầu nhiệm đó. Trong 400 năm qua, mỗi vị Giáo Hoàng đều viết một số điểm về sức mạnh của khí cụ thiêng liêng này. Chuỗi Mân Côi là một khí cụ để chẩun bị hoặc tạ ơn sau Thánh Lễ. Khi lần chuỗi chung cộng đoàn trước bí tích Thánh Thể, Giáo hội ban một ơn toàn xá, với điều kiện người tham dự phải giữ các quy định để được hưởng ơn xá này.



[1] KENNETH D. BRIGHENTI & JOHN TRIGILIO, JR – GIẢI ĐÁP NHỮNG THẮC MẮC VỀ ĐẠO CÔNG GIÁO 300 CÂU HỎI THƯỜNG GẶP NHẤT – CHUYỂN NGỮ NHÓM MAJORICA DÒNG TÊN VIỆT NAM – Nxb Tôn Giáo – Câu Hỏi Số 117: Tại Sao Phải Lần Hạt Mân Côi? Lần Hạt Có Phải Chỉ Là Việc Lặp Đi Lặp Lại – Trang 280.

Thứ Tư, 20 tháng 12, 2023

MỘT VẦNG TRĂNG

 

MỘT VẦNG TRĂNG

Trong sách diễn giảng giáo lý nhà Phật của Lâm Thanh Huyền xuất bản tại Đài Loan có kể một câu chuyện ngắn Phật Học tựa đề “Tặng Một Vầng Trăng”. Tác giả đề cao cái bản tính lương thiện trong mỗi con người như cổ nhân đã dạy “nhân tri sơ, tính bản thiện”.

Truyển kể về một vị thiền sư sống tu luyện, ẩn dật trong túp lều tranh nơi rừng vắng xa xôi. Một ngày nọ, sau một ngày khất thực, nhà sư rảo bước về nhà, nhưng không ngờ về gần tới nhà thì nhà sư phát hiện ra có kẻ trộm đang viếng thăm nhà mình. Với tính từ tâm, nhà sư cảm thấy tội nghiệp cho tên trộm, vì biết rằng trong túp lều chẳng có gì để mà lấy. Vì thế nhà sư cứ nấn ná ở ngoài mãi mà không dám vào nhà vì sợ sẽ làm cho tên trộm hốt hoảng. Khi tên trộm thất thểu bước ra thì gặp nhà sư trần truồng đang chờ sẵn ngoài đầu ngõ, tay cầm chiếc áo cà sa mạc màu. Tên trộm hoảng sợ chưa biết phản ứng ra sao thì nhà sư đã lên tiếng trước:

-        Con lặn lội đường xá xa xôi đến thăm ta mà ta chẳng có gì cho con. Trời về khuya gió lạnh, con cầm đỡ tấm áo cà sa này như món quà nhỏ ta tặng con.

Nói xong nhà sư khoác chiếc áo cà sa cũ lên người tên trộm, còn hắn thì ngỡ ngàng không nói được tiếng nào, lủi thủi bỏ về. Nhìn theo thằng ăn trộm khuất bóng trong đêm, nhà sư lẩm bẩm một mình:

-        Hỡi kẻ đáng thương, ta ước gì có thể tặng con một vầng trăng sáng vằng vặc của đêm nay!

Mặc dù băn khoăn chưa tặng ánh trăng cho thằng ăn trộm được, nhưng nhà sư cũng điềm tĩnh đủ để thản nhiên ngồi thiền trước cửa nhà dưới ánh trăng sáng dịu dàng. Trong đêm sáng, trăng thanh tịnh này, không có gì đẹp và thanh khiết cho bằng ánh trăng. Mặt trăng tròn trịa và trong sáng, biểu tượng cho sự trong sạch và thanh thoát của tâm hồn.

Theo quan niệm của Thiền Tông, ánh trăng còn tượng trưng cho tự tính của con người. Ánh trăng với ánh sáng dịu dàng, bình đẳng chiếu sáng khắp nơi, giống như bản tính chân thiện được ban bình đẳng nơi mỗi tâm hồn. Mục đích của đời người theo đạo Thiền là làm thế nào tìm được ánh trăng sáng trong tâm hồn. Là trở về với bản tính lương thiện của con người.

Dưới mắt của thiền sư, thằng ăn trộm bị sân si, nhục dục, tham lam làm mở đôi mắt, cũng như trăng sáng bị mây che phủ vậy.

Sáng hôm sau, khi ánh bình minh ló dạng, thiền sư vừa mở mắt ra thì đã thấy tấm áo cà sa của mình được xếp ngay ngắn, đặt bên đầu giường của thiền sư. Nhà sư vui mừng hơn bao giờ hết mới thốt lên:

-        Cuối cùng thì ta cũng tặng được cho con người đáng thương kia một vầng trăng sáng rồi!

 

*Thực tế của tác giả:

Lần đầu tiên về thăm quê hương, tôi tổ chức chuyến đi du lịch tại Nha Trang chung cho gia đình. Bãi tắm biển cát trắng, dọc theo con đường những khách sạn nhiều tầng đang đua nhau vươn lên cao nhìn ra biển. Băng qua con đường, trước khi xuống bãi tắm là một dãy quán café nằm dưới bóng mát của hàng dừa xanh cao lêu nghêu. Sau đó là cát trắng mịn trải dài ra biển. Xa xa ngoài khơi, còn trong tầm nhìn, là vài ba hòn đảo nhỏ nằm ở cuối đường chân trời tạo cho bức tranh có một bố cục thật đẹp. Phong cảnh Nha Trang đẹp qúa như thế, nên vừa đến Nha Trang, sau khi cất hành lý vào khách sạn là các cháu tôi đã tuôn ra biển ngay. Còn tôi, mục đích của tôi là ngắm cảnh đẹp, nên tôi vẫn chờ, chờ đến lúc nào thấy Nha Trang đẹp nhất. Buổi chiều, sau khi ra phố ăn tối về, tôi dạo quanh bãi biển một vòng cho tiêu bớt những đồ ăn biển đặc sản hạng nhất của địa phương. Bãi biển hoàng hôn xuống vắng người tắm biển hơn. Nhưng những hàng quán café dưới bóng dừa lại có vẻ bận rộnhơn nhiều. Họ đang vội vàng xếp lại những chiếc ghế bố, những cánh dù, hoặc ruột xe hơi làm phao cho khách mướn ban ngày giống như người chủ rạp hát đang thu dọn sân khấu cho một tuồng kịch mới.

Tôi thấy hoàng hôn trên bãi biển thật tả tơi và rã rời sau một ngày ồn ào. Không thấy gì đẹp, sau khi dạo bộ một vòng, tôi trở về khách sạn đọc Kinh Chiều và mời các cháu vào phòng tôi dâng thánh lễ. Thánh lễ xong thì trời đã tối, tối đủ để không còn thấy rác rưởi vất loanh quanh hàng quán café dọc bãi biển nữa, nhưng tất cả đã lên đènchớp nháy xanh đỏ. Cả thành phố đã lên đèn, ngay cả những cô hàng quán ban ngày chỉ mặc chiếc áo bà ba trắng với chiếc quần thâm đen lam lũ thu dọn phao bơi, dù che nắng, ghế bố bây giờ cũng lên bộ quần áo xanh đỏ lượt là. Dãy quán café ban ngày không người uống câm như hến đứng lặng im dưới bóng dừa bây giờ ồn ào tiếng nhạc xập xình. Con đường dập dìu trai gái đèo bồng, xe Dream, xe Honda vang tiếng còi. Nha Trang về đêm có những cuộc vui mới, không ai còn nhớ đến biển nữa.

Sau khi dâng thánh lễ, tôi lại một mình thả bộ ra bãi biển, bãi biển lặng thinh, mặt biển êm đềm chỉ hơi gờn gợn sóng mà không vang tiếng ồn ào. Ánh trăng tròn sáng vằng vặc treo leo giữa hai đỉnh núi ngoài khơi thu hút hồn tôi ngay. Trăng, biển và núi, tôi đã bắt chụp được cảnh đẹp nhất của quê hương cát trắng. Trăng sáng dịu dàng như tấm khăn voan mỏng phủ lấy biển, và từ biển tỏa lên một làn khói mỏng lung linh mờ ảo, múa nhảy như rồng bay phượng múa mà quyện lấy ánh trăng, biến hai ngọn núi ở xa xa thành một thế giới huyền hoặc trên cõi tiên long. Bị thu hút ngay bởi cảnh tiên trong cõi trần giới, tôi hăng say như thiền sư sắp nhập niết bàn, tay cầm cỗ tràng hạt, phóng nhanh ra biển với chiếc quần short mặc từ Mỹ quốc về!

Tôi còn phải lần một tràng hạt nữa trước khi đi ngủ. Nước biển đã rút xa xa hơn để lại một khoảng bãi cát thật mịn màng, không bị vết chân người đào bới. Tôi cảm thấy thật thú vị và tự do với khoảng không gian rộng rãi của biển mà ban ngày thì thật chen chúc và chi chít những người. Bỏ lại ồn ào sau lưng, tôi lững thững đi ra thật xa ngoài bãi biển, chỗ giáp nối nước biển và cát, với ý tưởng rằng đó cũng là chỗ giáp nối giữa thiên nhiên và con người, giữa con người và Thượng Đế. Sau một hồi loanh quanh trên bãi biển, tôi tìm được một chỗ khá lý tưởng để ngồi đọc kinh lần chuỗi. Đó là một hòn đá rất sạch sẽ, nằm ngay ngắn và chắc chắn. Tôi có thể an tâm ngồi đọc kinh như thiền sư ngồi thiền trước cửa nhà ngắm ánh trăng trong câu chuyện trên. Nhưng khác một điều, thiền sư không cần quần áo vẫn nhập niết bàn được, còn tôi thì không thể! Nếu trần trụi như thiền sư dưới ánh trăng trước cửa biển Nha Trang này thì có nước Amen thôi!!!

Đang an tâm lần chuỗi, mới được 10 Kinh Kính Mừng, chưa kịp sang Kinh Sáng Danh thì điều trước tiên tôi cảm thấy, một mùi nước hoa nồng nặc, loại nội hóa ập tới, đánh tan không khí biển. Tôi chưa kịp suy nghĩ để tiên đoán được điều gì sẽ xảy ra, thì tiếp theo đó là một vòng tay ôm choàng lấy cổ tôi. Đi theo vòng tay là một giọng nói nhe nhàng:

-        Sao anh ngồi một mình buồn thế?

Giọng nói làm tôi nổi da gà chưa chấm dứt thì một cặp đùi phụ nữ với chiếc váy ngắn kê sát vai tôi, rồi nàng từ từ ngồi xuống, gác chéo một chân đè lên đùi tôi, tay ôm gọn lấy người tôi.

-        Anh có chuyện gì buồn vậy? Cho em tâm sự với anh được không?

Chưa bao giờ tôi bị rơi vào một tình huống vừa bất ngờ, vừa quá sức tưởng tượng như vậy, nên tôi rất lúng túng và run rẩy, không biết và chưa kịp suy nghĩ phải phản ứng ra sao! Còn cô gái làng chơi thì tấn công tôi tới tấp, tay cô quờ quạng, theo đúng bài bản…

-        Có phải anh vừa ở xa về phải không?

-        Ờ ờ ờ tôi là cán bộ làm việc ở Sài Gòn.

-        Anh nói dối em, anh là Việt kiều phải không anh?

-        Ờ ờ ờ

-        Thế anh có muốn chơi không?

-        Không! Không! Không! Thủ tướng của tôi đang uống café ở trong kia kìa!

-        Hay anh muốn em…?

-        Không! Không! Không! Tôi không mang tiền theo!

Trong đầu tôi tự nhiên nghĩ đến những hàng quán đằng sau lưng, có thể cả một nhóm đồng bọn đang sẵn sàng tấn công tôi. Cô ta chỉ cần la lên rồi đổ thừa tôi hãm hiếp cô ta cũng đủ cho chúng nhào ra. Và bất cứ điều gì xấu nhất cũng có thể xảy ra cho tôi.

Tôi nghĩ đến giấy tờ tùy thân, passport, giấy tạm trú, rất may tôi chẳng mang theo giấy tờ gì! Tiền bạc cũng không. Chỉ mỗi cỗ tràng hạt đang cầm chặt ở tay. Tôi chợt cầu xin Đức Mẹ.

Sau khi tấn công tôi bằng da thịt, thấy tôi chống đối và không có hiểu quả, cô ta rờ túi tôi xem có tiền bạc gì thật không. Còn tôi đã đổi tư thế để đứng dậy và quyết liệt đẩy cô ta ra xa tôi. Tự nhiên ý tưởng mới nảy sinh trong đầu đã giúp tôi thoát thân:

-        Cô đừng sờ đến người tôi! Vừa nói tôi vừa đẩy cô ấy xa ra.

-        Vợ tôi đang đứng ở trong, nhìn thấy thì chết tôi.

Hú hồn vía, tôi đi thẳng vào khách sạn, không còn dám luyến tiếc gì nữa, dù là ánh trăng quê hương!

Trở về Mỹ, tôi đọc được câu chuyện của vị thiền sư và ánh trăng. Nếu lúc đó, trong túi tôi có tiền, tôi sẽ tặng cô gái làng chơi đó ít tiền và may ra cuộc đối thoại sẽ thú vị hơn. Nhưng cho dù có tiền rồi, chưa chắc tôi đã cho cô ta được ánh trăng. Tôi đã thua rất xa vị thiền sư. Ngài đã cho thằng ăn trộm được ánh trăng. Còn tôi, vẫn không cho cô gái làng chơi được ánh trăng mà phải bỏ cả ánh trăng lẫn cô gái mà chạy!

Đến bao giờ người dân tôi mới biết quý ánh trănghơn đồng tiền? và đến bao giờ tôi mới cho họ được ánh trăng như thiền sư tôi phải khổ công tu luyện nhiều hơn nữa. vì ánh trăng càng quý thì tình yêu càng phải rất bao la.

LM GIUSE NGUYỄN VĂN THÁI – USA.     

 

 

FOOTNOTE: LỚP GIUSE 66 – THAY LỜI TẠ ƠN – 36 NĂM KỶ YẾU LỚP GIUSE 66 GIÁO PHẬN LONG XUYÊN 1966-2002. PAGE – 60. TÁC GIẢ LM GIUSE NGUYỄN VĂN THÁI – USA.     

TẶNG MỘT VẦNG TRĂNG

 TẶNG MỘT VẦNG TRĂNG

Tác giả: Lâm Thanh Huyền
Dịch giả: Phạm Huê

tangmotvangtrang2Một vị thiền sư nọ cất túp lều tranh trong rừng sâu sống ẩn dật tu luyện không tranh đua với đời. Thiền sư tiếp xúc với cỏ cây nhiều hơn con người cho nên tâm hồn ông rất thanh thản vô vi. Một đêm trăng sáng vằng vặc, ông đi dạo chơi trong núi, giữa khung cảnh thanh tịnh huyền ảo đó, ông đột nhiên khai ngộ ra tự tính bát nhã đã tiềm ẩn từ lâu trong người.
Nhà sư vui mừng rảo bước ra về, không ngờ nơi ông tu hành đang có sự viếng thăm của một kẻ trộmTội nghiệp cho tên trộm, hắn không tìm thấy được vật gì quí giá trong túp lều tranh đành thất thểu bước ra thì chạm mặt nhà sư. Thật ra thì nhà sư đã về đến nhà từ lâu nhưng ông ngại sẽ làm cho tên trộm giật mình, vì vậy ông đã nấn ná phía bên ngoài đợi cho tên trộm bước ra, tay ông cầm sẵn chiếc cà sa bạc màu mà ông đã mặc nhiều năm trên người. Tên trộm hơi bỡ ngỡ chưa biết phải làm sao thì nhà sư đã lên tiếng:
- Con lặn lội đường xa đến thăm, ta không nỡ để con ra về tay không. Trời về khuya gió lạnh, con hãy cầm đỡ tấm cà sa này xem đó như một món quà nhỏ của ta tặng.
Nói xong ông khoác chiếc áo cũ lên người tên trộm, con người đáng thương cảm thấy ngỡ ngàng, hắn lầm lũi ra đi mà không nói được một lời.
Nhìn theo kẻ trộm dần dần khuất vào bóng đêm, nhà sư thở dài lẩm bẩm:
- Hỡi kẻ đáng thương, ta ước gì có thể tặng cho con một vầng trăng sáng vằng vặc của đêm nay.

Nhà sư không tặng được vầng trăng cho tên trộm cho nên ông cảm thấy xốn xang. Trong đêm sáng trăng thanh tịnh này, không có gì đẹp và thanh khiết cho bằng ánh trăng. Khi ông muốn mang ánh trăng tặng cho người khác, ngoài cái đẹp của sự vật, còn có một ý nghĩa trong sạch và thanh thoát cho tâm hồn. Từ ngàn xưa, những vị Đại Đức của Thiền Tông thường dùng ánh trăng để tượng trưng cho tự tính của con ngườilý do là vầng trăng đêm mang ánh sáng dịu dàngbình đẳng chiếu sáng khắp nơi. Làm thế nào để tìm cho được một ánh trăng sáng trong tâm hồn thường là mục tiêu của người theo đạo Thiền. Dưới mắt của nhà sưkẻ trộm kia bị dục vọng làm mờ đôi mắt, cũng như vầng trăng sáng bị mây đen che phủ. Một con người không tìm được hướng đi, không tự chiếu sáng lấy mình, chính là một điều vô cùng bất hạnh.
Sáng hôm sau, khi ánh bình minh đánh thức ông dậy, nhà sư mở mắt ra thì thấy tấm áo cà sa đã được xếp ngay ngắn đặt bên cạnh từ lúc nào. Nhà sư cảm thấy vui mừng hơn bao giờ hết, ông lẩm bẩm nói rằng:
Cuối cùng thì ta cũng tặng được cho con người đáng thương kia một vầng trăng sáng rồi.

Chắc là bạn không thể ngờ là vầng trăng cũng có thể trở thành một món quà tặng. Điều này kể ra cũng lý thú lắm nhỉ. Trong cuộc sống thực tế của chúng ta, có những sự vật vô hình không thể nào làm quà tặng được. Dĩ nhiên là bạn không thể nào nói với người ăn mày ngoài đường như thế này: "Tôi tặng cho ông một chút từ bi". Chúng ta chỉ có thể dùng số lượng tiền bạc hoặc hiện vật nhiều hay ít để đo lường tấm lòng từ bi đó. Cũng như bạn không thể nào nói với người yêu của bạn rằng: "Anh tặng cho em 100 cái tình yêu", bạn chỉ có thể tặng cho nàng 100 đóa hoa hồng. Cũng từ số lượng hoa hồng, người ta có thể đo lường được mức độ say đắm và tấm lòng trung kiên với người yêu. Tuy rằng lối tính toán và đo lường này không phải lúc nào cũng chính xác. Đôi khi người tặng hoa hồng có thể lại là người thật lòng thương yêu và tình yêu của họ lại còn nồng nàn và chín chắn hơn cả những người tặng hột xoàn cho người đẹp nữa, bạn ạ.


Thế nhưng trên cõi đời này, có nhiều sự việc như tình bạn, tình yêu, chính nghĩahạnh phúcbình antrí tuệ đều là những thứ vô giá mà chúng ta không thể nào dùng những sự vật hữu hình để đo lường. Đây cũng là một điều làm cho giữa con người và con người có những sự hiểu lầm nhau trên giá trị của những sự việc vô hình trừu tượngCon người thường dùng những vật hữu hình để diễn đạt những tín hiệu của tâm linh, như là tình yêu thươnglòng hiếu thảo, sự biết ơn chẳng hạn. Thế nhưng trong quá trình để đo lường những sự việc vô hình đó chắc chắn thế nào cũng có những chênh lệch, mà sự chênh lệch này thường khiến cho bạn bè hiểu lầm, tình ruột thịt trở thành thù nghịch, kẻ yêu nhau trở thành nghi kỵ, thù ghét nhau.
Những tình cảm vô hình giá trị đó có một sự tiếp cận với triết lý của Phật Học: "chỉ có thể lãnh hội mà không thể nào truyền đạt". Thí dụ như một cái siết tay thân mật giữa đôi bạn thân, một nụ hôn nồng cháy của đôi tình nhân, một nụ cười âu yếm giữa vợ và chồng, một tiếng kêu mẹ thân yêu thắm thiết, hoặc một lời cầu chúc đẹp đều là những món quà tặng cho nhau quí giá nhất mà không có một khối lượng tiền của nào có thể mua được(hay một sự quan tâm đặt biệt xuất phát từ đáy lòng cũg là một món quà quý giá hơn cả mọi hiện vật )

Trên thế gian không có một phương thức cố định nào có thể huấn luyện cho con người biểu lộ những tình cảm vô hình đó. Thế nhưng theo tôi nghĩ, phương pháp duy nhất để huấn luyện cho bản ngã có thể diễn đạt được những tình cảm này là chúng ta hãy quay lại phán xét về chính bản thân, tìm nhiều phương thức để làm giàu nhân cách, khiến cho bản thân chúng ta trở thành thuần thiện, nhiệt tình, vô tư thì tự nhiên những tình cảm vô hình bạn dành cho kẻ khác sẽ biểu hiện một cách rõ ràng trên sắc diện.
Khi sự chân thành của bạn((Lòng từ bi)) có thể lộ ra trên sắc diện thì lúc đó bạn có thể tặng một vầng trăng cho kẻ khác mà chắc chắn đối phương sẽ dễ dàng nhận được món quà quí giá này.
Nếu lúc nào chúng ta cũng giữ được tấm lòng trong sạchtính tình khoan dungtự tâm yên tĩnh, lục căn thanh tịnh thì đừng nói một ánh trăng mà nhiều ánh trăng cũng có thể làm quà tặng cho kẻ khác được. ánh trăng không chỉ đơn thuần dùng để tặng cho nhau mà còn có thể chiếu sáng lẫn nhau, soi đường cho nhau, hồi hướng cho nhau(rất đúng)
Vì vậy khi nhà sư nói với tên trộm: "Ước gì ta có thể tặng cho con một vầng trăng sáng", đó chính là tiếng nói của một tấm lòng từ bi, trong sạch. Tấm lòng từ bi đã khiến cho kẻ trộm cảm nhận được và xấu hổ vì hành động bất lương. Hắn đã ngộ đạo và quay lại con đường phúc thiện tràn đầy ánh sáng.

Nháp

  Nháp Thần Khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là Thần khí và là sự sống (Ga 6, 63). -Từ ngàn x...