LỊCH SỬ DÒNG NỮ ĐA MINH GÒ VẤP (LẠNG SƠN)
Dòng nữ Đa
Minh Gò Vấp
(Lạng Sơn) là Dòng địa phận thuộc Tổng Giáo phận Tp. Hồ Chí Minh, có nguồn gốc từ
Lạng Sơn Miền Bắc di cư; được thành hình trong một địa phương và với những hoàn
cảnh đặc biệt. Lịch sử của Hội dòng Đa Minh Gò Vấp (Lạng Sơn) có thể chia làm 3
phần với 3 thời kỳ:
- Phần I: Thời kỳ Sơ khai – Từ Nhà Phước đến Cải tổ
thành Dòng (1918 - 1956)
- Phần II: Thời kỳ Cải tổ và phát triển
- Phần III: Thời kỳ chính thức là Hội dòng Đa Minh
Lạng Sơn, thánh hiệu Đức Mẹ Mân Côi, Giáo phận Tp. Hồ Chí Minh đến nay.
Vào
thời gian năm 1883, việc truyền giáo của Giáo hội ở Bắc Việt được chia cho hai
tập thể là Hội Thừa Sai Paris người Pháp, và Tỉnh Dòng Đa Minh ở Manila người
Tây Ban Nha. Giới hạn đất đai để hoạt động là như sau: bên đông sông Hồng Hà
thuộc các cha Đa Minh, và bên tây thuộc các cha Thừa Sai Pháp. Trên phần đất
dành cho các cha Đa Minh có ba giáo phận Bùi Chu, Hải Phòng và Bắc Ninh.
Năm
1898, Giám mục đại diện Tông Tòa ba giáo phận trên gợi ý với Bề trên Cả ở Rôma
rằng từ khi người Pháp đã xâm chiếm Bắc Việt, nếu có mặt các cha Đa Minh người
Pháp, thì sẽ thuận tiện hơn trong việc giao tiếp với chính quyền Pháp ở địa
phương. Ý kiến này được cha Laboure, lúc ấy làm Giám tỉnh Dòng Đa Minh Lyon chấp
nhận, và ngày 09/02/1902, cha Bề trên gửi ba cha Lyon đến cộng tác với các Cha
Tây Ban Nha tại Bắc Việt. Đó là bước đầu, dần dần số các cha Đa Minh sang thêm
đông hơn. Năm 1907, Cha Cothonay đại diện các cha Đa Minh Lyon ở Việt Nam ngỏ ý
muốn có một đất riêng để hoạt động tông đồ cho các cha Đa Minh Lyon ở Việt Nam.
Đức cha Vélaseo của giáo phận Bắc Ninh đồng ý và trao hai tỉnh Lạng Sơn và Cao
Bằng thuộc giáo phận ngài cho cha Đa Minh Lyon.
Ngày
30/12/1913, Tòa Thánh Rôma có sắc dụ lập Phủ Doãn Tông Tòa Cao Bằng, Lạng Sơn
và một phần đất của các cha Thừa Sai Paris ở bên này sông Lô của tỉnh Hà Giang.
Cha Cothonay, 60 tuổi, được cử làm Đức Ông Phủ Doãn Tông Tòa đầu tiên của phần
đất này. Đức Ông về giáo phận mình ngày 05/06/1914 tại Văn Miếu là cơ sở độc nhất
do giáo phận Bắc Ninh đã xây cất và trao lại cho ngài. Một trận lụt lớn đã làm
cho trụ sở Văn Miếu ngập nhiều ngày không cư trú được, nên Đức Ông đã mua một
khách sạn gần đó không có khách phải bán, nhưng có một vị trí lụt không ngập để
làm nhà thờ và tòa Phủ Doãn.
Cha
Mailet tiếp nối cha Cothonay cai quản Phủ Doãn Lạng Sơn – Cao Bằng từ năm 1925
đến năm 1929, sau đó ngài xin từ chức. Ngày 14/07/1929, hội Truyền giáo đặt cha
Félice Hedde làm Tổng Quản Tông Tòa và ngày 08/01/1931 làm Phủ Doãn Tông Tòa. Đến
năm 1939, ngài được thụ phong Giám mục và trở nên Đại Diện Tông Tòa như các
Giám mục Bùi Chu, Hải Phòng và Bắc Ninh. Cũng năm ấy, Cha André Jacq được thụ
phong Phó Giám mục, chia sẻ trách vụ với Đức cha Félice Hedde luôn phải vắng mặt
để giảng phòng cho các linh mục các giáo phận khác, và đi ngoại quốc để kiếm tiền
xây cất nhà thờ, nhà xứ, trường học mà giáo phận còn có quá ít.
Năm
1958, Đức cha André Jacq bị trục xuất khỏi miền Bắc, xuống miền Nam Việt Nam
thì Đức cha Vinh sơn Phạm Văn Dụ lên thay. Ngay từ thời Đức Ông Bertrand
Cothonay đã sống chung truyền giáo với các cha Tây Ban Nha ở Bùi Chu, ngài đã
kinh nghiệm rằng các “cô mụ” cộng tác vào các việc tryuền giáo rất đắc lực, nên
khi làm Phủ Doãn Tông Tòa ở Lạng Sơn, Cao Bằng, ngài đã mời các “cô mụ” lên
giúp việc. Đời ngài đã có 22 “cô mụ” sống trong 6 tập thể riêng biệt.
Các
“cô mụ” là ai? Họ là những người phụ nữ xuất thân từ dân chúng, sống một nếp sống
lao động cần cù như dân chúng nên giao thiệp dễ dàng với dân chúng lương cũng
như giáo. Họ ảnh hưởng rất lớn trên đàn bà, trẻ nhỏ. Họ sống bằng việc khai
hoang để trồng lúa và cây ăn quả hay bằng nghề bán thuốc “cao đơn hoàn tán”. Tại
nhà thờ, họ giữ việc xướng và đọc kinh theo giờ nhất định để giúp dân chúng cầu
nguyện và thông hiểu lẽ đạo.
Khoảng
năm 1925, đã có trong tất cả Phủ Doãn Tông tòa 9 tập thể “cô mụ” độc lập ở các
địa điểm sau:
-
Quảng Uyên với chị nhất Ro gốc Bùi Chu.
-
Cao Bằng với chị nhất Nha gốc Bùi Chu.
-
Thất Khê với chị nhất Khiêm gốc Bùi Chu.
-
Đồng Đăng với chị nhất Vững gốc Bùi Chu.
-
Mỹ Sơn với chị nhất Mầu gốc Bùi Chu.
-
Lạng Sơn với chị nhất Cậy gốc Bùi Chu.
-
Bản Lìm với chị nhất Ga gốc Bùi Chu.
-
Lộc Bình với chị nhất Vâng gốc Bùi Chu.
-
Đồng Mỏ với chị nhất Nguyện gốc Bùi Chu.
Tuy
các “cô mụ ” từ Bủi Chu lên là số lớn, nhưng cũng có những “cô mụ” từ Hải Phòng
và Bắc Ninh cũng lên mỗi ngày một đông, nhất là Bắc Ninh, và ngày nay, người Bắc
Ninh là đa số chứ không phải Bùi Chu nữa.
Trong
thời cha Mailet làm Phủ Doãn Tông Tòa, ngoài số các “cô mụ” nói trên, ngài còn
mời các chị Dòng Đức Bà Truyền Giáo lên mở trường dạy học ở Văn Miếu, và Dòng
thánh Phaolôlên chữa bệnh và nuôi trẻ mồ côi ở họ đạo Mỹ Sơn. Riêng về các “cô
mụ”, ngài có ý định cho học hỏi thêm để có khả năng dạy học cho trẻ em, dạy
giáo lý cho người tân tòng, và chữa bệnh.
Năm
1954 hiệp định Geneve kết thúc. Theo hiệp định này, nước Việt Nam cai trị bời
hai chính phủ khác nhau. Người dân được tự do lựa chọn miền mình ở. Hai Đức cha
Félice Hedde và André Jacq ra lệnh cho cha Micae Nguyễn Khắc Ngữ đứng đầu một số
giáo dân, “cô mụ” và chủng sinh vào miền Nam. Ngài đưa họ vào Sài Gòn và nơi tạm
trú đầu tiên là khu Lạng Sơn, Xóm Mới, Gò Vấp. Các “cô mụ” mà tiếng Nam gọi là
“dì phước” bước vào một định hướng mới hẵn. Định hướng ấy do sự khôn ngoan của
Thiên Chúa nhân lành hướng dẫn là một bước tiến trong thời gian phù hợp với sự
phục vụ con người Việt Nam. Bước tiến ấy như sẽ được trình bày sau đây:
PHẦN I:
THỜI KỲ SƠ KHAI (1918 - 1956) TỪ NHÀ PHƯỚC
ĐẾN CẢI TỔ THÀNH DÒNG
Sắc lệnh của
Thánh bộ Truyền giáo ban hành ngày 30.12.1913 đã thành lập một giáo phận mới gồm
hai tỉnh Lạng Sơn - Cao Bằng và một nửa tỉnh Hà Giang, lấy tên là Giáo phận Lạng
Sơn – Cao Bằng, và trao cho các cha dòng Đa Minh tỉnh dòng Lyon coi sóc.
Diện tích
Giáo phận là 25.000 cây số vuông, với một đường biên thùy Hoa – Việt dài 700
km. Đây là một miền rừng âm u hiểm trở, núi rừng trùng điệp. Dân số lúc ấy có
khoảng 300.000 người thuộc dòng dõi Thái, chia làm nhiều chủng: Thổ, Nùng, Mán,
Tày… và nói chừng 9, 10 thổ âm khác nhau, với niềm tin dân gian đa thần. Người Kinh
(Việt) chỉ là thiểu số ở trung châu lên đó làm ăn hoặc đi công cán.
Giáo phận mới
đặt dưới quyền coi sóc của Đức Ông Bertrand Cothonay OP (Chiểu). Khởi đầu kiến thiết
giáo phận, Ngài thấy cần có người bản xứ thành tâm thiện chí giúp việc, nhất là
ngài đã sống chung và cùng hoạt động truyền giáo với các cha Đa Minh Tây Ban
Nha ở Bùi Chu, nên đã kinh nghiệm rằng các “cô mụ” cộng tác vào việc truyền
giáo rất đắc lực, nên đã lưu tâm đến việc thiết lập nhà Phước Đa Minh. Nhưng,
giáo phận mới, giáo dân chỉ là tân tòng, chưa có ơn gọi tu trì, Ngài đã phải
liên lạc với các Nhà phước Đa Minh Bùi Chu, xin một số chị em lên giúp.
I. THIẾT LẬP NHÀ PHƯỚC ĐA MINH (1918 – 1954)
1. Nhà Phước Đa Minh Cửa Nam tỉnh Lạng Sơn
Năm 1918, Đức
Ông Bertrand Cothonay OP. Chiểu, qui tụ các chị em lập nên nhà phước đầu tiên tại
Cửa Nam tỉnh Lạng Sơn; chị Maria Nguyễn Thị Nha thuộc nhà phước Văn Tiên - Bùi
Chu làm bề trên và gồm có các chị em: Maria Nguyễn Thị Cậy, Agatha Nguyễn Thị
Nghĩa, Anna Nguyễn Thị Tin, Anna Nguyễn Thị Công, Maria Nguyễn Thị Kính, Maria
Nguyễn Thị Mến, Maria Nguyễn Thị Ơn.
Năm 1927, Chị
Nha về làm Bề trên nhà phước Cao Bằng, thì Chị Maria Nguyễn Thị Cậy lên thay
coi sóc Cộng đoàn Cửa Nam. Chị em làm ruộng, chăn nuôi, trồng màu và nuôi nhà
khuyết tật của dòng Đức Bà Truyền Giáo bỏ lại trong trận chiến Nhật – Pháp.
Chị em sống
theo tôn chỉ và luật pháp nhà phước Đaminh. Sự hiện diện của chị em nhà phước
tiên khởi nơi vùng đất dân ngoại này, cũng giống như các phụ nữ thời Giáo hội
sơ khai bên các tông đồ, là theo giúp việc.
2. Nhà phước Đa Minh Mỹ Sơn
Năm 1925, Đức
Ông Bertrand lập thêm Nhà Phước Mỹ Sơn. Chị Maria Nguyễn Thị Mầu, Nhà Phước
Trung Lao làm Bề trên cùng với các chị Maria Nguyễn Thị Kính, Anna Nguyễn Thị
Công, Anna Nguyễn Thị Ơn, Maria Trần Thị Mát, Maria Nguyễn Thị Ngắm, Anna Nguyễn
Thị Quy, Anna Nguyễn Thị An, Maria Nguyễn Thị Nghĩa.
Nơi đây các
chị cộng tác rất đắc lực giúp chủng viện thánh Têrêsa; trông coi nhà dưỡng lão
của các chị dòng Thánh Phaolô đã bỏ chạy chiến tranh vào khoảng năm 1942, đời
cha Giuse Trịnh Tiến Khái coi xứ Mỹ Sơn.
Ngày 25/5/1926
Đức Ông đáng kính Bertrand Cothonay trút hơi thở cuối cùng trong sự thương tiếc
của đoàn con mà ngài đã gây dựng; xác Ngài được an táng trước thánh đường Mỹ
Sơn để con cái sớm hôm thăm viếng và cầu nguyện, ghi nhớ công ơn khai sáng của
ngài. Ngày 14/11/2006 Đức cha Giuse Ngô Quang Kiệt đã cải táng phần mộ của Ngài
về tòa Giám mục Lạng Sơn.
Sau Đức Ông Cothonay là Đức ông Maillet Bính OP. Ngài tiếp tục đường lối của Đức
ông Cothonay, mong muốn các chị em nhà phước hiện diện ở nhiều nơi hơn, nên
trong ba năm, Ngài đã lập thêm ba nhà Bản Lìm, Đồng Mỏ và Cao Bằng.
3. Nhà Phước Đa Minh Bản Lìm – Thiết lập năm 1927
Chị Rosa Bùi
Thị Ga, gốc nhà phước Bùi Chu làm Bề trên; gồm có các chị:
Maria Trần Thị Ơn, Maria Nguyễn Thị Huệ, Anna Nguyễn Thị
Tuyết, Maria Nguyễn Thị Hiền, Maria Hoàng Thị Ngọc, Maria Nguyễn Thị Thái, Anna
Trần Thị Tâm, Macta Nguyễn Thị An.
Nhà Bản Lìm
trong hoàn cảnh thuận lợi là sống với thời các cha xứ Việt Nam nhiều hơn như
cha Thao, cha Quyến, cha Phú, cha Kế, nên chị em được các cha hướng dẫn trong đời
sống thiêng liêng, cũng như dạy kèm thêm văn hóa.
Biến cố di
cư 1954, chị em vào miền Nam; gia đình một người bổn đạo vào sống trong ngôi nhà
của chị em.
Năm 1990,
khi đất nước có chiều hướng mở ra, chị em đã trở về để có thể tiếp tục hiện diện
và tái thiết lại, thì gia đình đó đã dời đi nơi khác. Nhưng chị em gặp nhiều
khó khăn về tạm trú và đã phải ngậm ngùi ra đi, bỏ lại ngôi nhà vẫn cửa đóng
then cài cho đến ngày nay, như dấu chứng của một thời, dấu ấn của một đời!
4. Nhà Phước Đa Minh Đồng Mỏ:
Thiết lập năm 1927. Chị Maria Nguyễn Thị Nguyện, gốc nhà phước Bùi Chu làm
Bề trên cùng với các chị Maria Nguyễn Thị Lành, Maria Nguyễn Thị Nhiệm. Cộng
đoàn này năm Nhật đánh Lạng Sơn, các chị bỏ về xuôi hết. Chị Nguyện và chị Nhiệm
nhập vào dòng Mân Côi; Chị Lành vào Đa Minh Bùi Chu.
5. Nhà Phước Đa Minh Cao Bằng:
Thiết lập
năm 1927. Bà Maria Nguyễn Thị Nha ở nhà phước Cửa Nam lên làm Bề trên tại đây,
cùng với các chị: Maria Nguyễn Thị Suy, Maria Trần Thị Tin, Maria Nguyễn Thị
Kính, Maria Nguyễn Thị Ngợi, Maria Nguyễn Thị Na, Maria Nguyễn Thị Ơn, Maria
Hoàng Thị Nhân.
Nhà Phước
Cao Bằng có chị Maria Nguyễn Thị Ơn là chứng nhân của lòng yêu mến Đức Mẹ Mân
Côi và phép lần hạt Mân Côi. Chị đã dâng hiến thân mình bằng một cái chết âm thầm
với một tình yêu mãnh liệt. Vào cuối năm 1946 trên đường từ Cao Bằng về quê
thăm em bị bệnh ở Nước Hai, chị không rời cỗ tràng hạt trên tay. Bị theo dõi và
phát giác, người ta bắt chị vứt bỏ cỗ tràng hạt đi, chị không chịu. Trong cương
quyết kháng cự, chị đã bị đánh và đẩy xuống vực cho chết luôn.
Trong khoảng
thời gian từ 1934 – 1948, Đức Cha Felice Hedde Minh, OP. lập thêm 4 nhà do bốn
Chị gốc Nhà phước Bùi Chu làm Bề trên.
6. Nhà Phước Đa Minh Thất Khê
Thành lập
năm 1934, gồm có chị Nhất Catarina Trần Thị Khiêm, Maria Nguyễn Thị Cậy, Maria
Phạm Thị Nhiệm (Nhì), Maria Nguyễn Thị Nghĩa, Maria Trần Thị Sâm, Agnes Hoàng
Thị Mến (Sa), Maria Nguyễn Thị Huệ, Catarina Hoàng Thị Yên, Maria Trần Thị Tịnh, Maria Trần Thị Na, Têrêsa Nông Thị Tê, Maria Nguyễn Thị An, Maria Dương
Thị Thi, Maria Nguyễn Thị Oanh.
Những khuôn
mặt thân quen ai cũng biết đến phải kể là chị nhất Khiêm, chị Nhiệm (Nhì), mà
người Dân tộc trong bản làng gọi các chị là “Bà xóm đạo - Bà xóm đạo chữa bệnh
mát tay lắm!” Các chị đã rửa tội được nhiều trẻ em và người lớn lâm bệnh hiểm
nghèo.
Nhà phước Thất
Khê trong thời kỳ các nhà thừa sai bị giam giữ tại đây từ năm 1950 -1953, chị
em đã giúp đỡ chăm nuôi bốn vị truyền giáo là Đức cha Hedde, Đức Cha Jacq, cha
Nerdeux và cha Guibert trong 3 năm 3 tháng 10 ngày. Chị em rất nỗ lực vừa đi
lao công cho nhà nước vừa xay thóc giã gạo mướn để có của nuôi các ngài và tiếp
tế thuốc men.
Hơn nữa, nhà
phước Thất Khê còn dâng hiến cho lòng đất mẹ tấm hình hài của hai người chị em
là chị Maria Nguyễn Thị Cậy và Maria Nguyễn Thị Nghĩa bị đánh chết tại Hà Lũng
trong khi thi hành sứ vụ ngày 09/12/1946 trên đường đi từ Thất Khê xuống Tòa
Giám Mục Lạng Sơn và xác hai chị bị quăng xuống vực sâu.
7. Nhà Phước Đa Minh Quảng Uyên:
Do cha
Maillet Bính lập năm 1937 khi ngài nghỉ hưu ở đây. Chị Maria Nguyễn Thị Ro làm
Bề trên và các chị em: Maria Nguyễn Thị Kính, Maria Nguyễn Thị Ngợi, Maria Nguyễn
Thị Nhạn (Bà Mến), Maria Nguyễn Thị Phan (Em Bà Mến), Maria Nguyễn Thị Nhường,
Maria Nguyễn Thị Chi, Rosa Nguyễn Thị Khiêm, Maria Nguyễn Thị Suy, Maria Hoàng
Thị Nhân.
Chị em Quảng
Uyên được cha Maillet thương giúp và chỉ bảo tận tình trong công việc lao động
chân tay. Các chị cũng đã chứng kiến cái chết của cha Maillet Bính, Brébion Úy
và cha Giuse Nguyễn Văn Đề.
Chị em đã an
táng cha Brébion Úy bên cạnh nhà thờ Quảng Uyên năm 1947. Hiện nay nhà thờ đã bị
phá bình địa và là khu quân đội chiếm đóng. Đã có những sự kiện lạ nơi mộ của
ngài, nên dù mộ không được xây cất hẳn hoi, chỉ là những hòn đá xếp lên trên mà
vẫn còn nguyên đó, không ai dám động đến! Còn cha Maillet Bính và cha Đề thì bị
thủ tiêu mất tích.
Năm 1949, chị em bị đuổi khỏi Quảng Uyên, một số chị đến ở Cao Bằng, một số về
giúp nhà khuyết tật, mồ côi tại Cửa Nam.
8. Nhà Phước Đa Minh Đồng Đăng:
Do cha
Arbogast Haag Đỗ Minh Xuyên OP. lập năm 1941, nằm dưới chân đồi nhà xứ Đồng
Đăng, đối diện ga tầu lửa. Gồm có chị Nhất Maria Nguyễn Thị Vững, Chị Maria
Nguyễn Thị Tin, Anna Trần Thị Cậy, Maria Mai Thị Mầu (Mến), Anna Nguyễn Thị Ri,
Maria Nguyễn Thị Hiền. Năm 1954 chị em di cư hết. Ngôi nhà của chị em được nhà
nước trưng dụng làm nhà kho.
9. Nhà Phước Đa Minh Lộc Bình:
Lập năm 1948
ở giữa khu phố Lộc Bình. Chị Nhất Maria Vũ Thị Vâng, Maria Nguyễn Thị Chuyền,
chị Maria Nguyễn Thị Chiên. Ở đây, chị Vâng làm thuốc chữa bệnh
rất được tín nhiệm. Có lần ông chánh tổng trong làng đem ngựa đi đón chị về nhà
chữa bệnh cho con ông. Chị Vâng có dạng người to lớn, oai vệ, đã ngồi trên lưng
ngựa để ông dắt đi, vì đường rừng, xa xôi. Một hình ảnh thật ấn tượng! Chị Chuyền
thường ra suối chao tép đổi lấy gạo để có lương thực giúp người nghèo. Sau di
cư, gia đình ông Cung đến ở nhà các chị cho đến ngày nay.
Nhờ ơn Chúa,
ơn gọi ở các miền xuôi đem tới, số chị em mỗi ngày thêm đông từ các giáo phận
Bùi Chu, Hải Phòng và Bắc Ninh. Năm 1948, địa phận có 9 nhà phước và
khoảng 50 nữ tu.
Nói chung,
các nhà phước sống tự lập, số các chị em ở mỗi nhà đã phát triển nhiều ít tùy
nhu cầu công việc tại chỗ và tùy cha xứ.
Mấy nhà được
biết đến hơn trong thời bình (trước 1945) là Mỹ Sơn, Bản Lìm, Thất Khê; các nhà
này cũng là những nơi có đông các chị hơn cả.
Một đặc điểm
nói lên tính chuyên tu và từ bỏ để theo Chúa của các chị là khi vào tu, các chị
thường không gọi tên theo như gia đình đã đặt cho, mà nhận một tên khác theo
ngôn từ nhà đạo, diễn tả nét khiêm nhu, hiền lành, đạo đức như: Tin, Cậy, Kính,
Mến, Ơn, Nghĩa ... nên đã có sự trùng lắp tên nhau.
Quả thực,
trong việc khai phá, truyền giảng Tin Mừng tại giáo phận Lạng Sơn, sát cánh với
các nhà thừa sai Đa Minh Lyon và các cha Việt Nam trong việc thiết lập và phát
triển các giáo xứ trong giáo phận, phải kể đến rất nhiều công khó của chị em
nhà phước Đa Minh Lạng Sơn.
Là những cô gái trẻ, đầy nhiệt huyết tông đồ, hàng ngày chị em lao động cần cù
để có lương thực nuôi sống mình và giúp nuôi các chủng sinh cũng như các nhà thừa
sai trong thời kỳ giam cầm tù tội. Là những bà lang đi chữa thuốc miễn phí, các
chị có thể len lỏi vào mọi ngõ ngách của đời sống dân làng. Bằng lời cầu nguyện,
chị em là hậu phương vững chắc nâng đỡ tinh thần các vị truyền giáo, giúp dân
chúng cầu nguyện và thông hiểu lẽ đạo. Cách thức hiện diện của các chị đã đóng
góp rất nhiều thành quả cho việc truyền giáo của giáo phận thuở ban đầu.
Năm 1949,
sau khi nhận trách nhiệm Giáo phận Lạng Sơn, Đức cha André Réginal Jacques Mỹ
OP đặc biệt lưu ý đến các chị em, lo lắng chuẩn bị xây cất cơ sở để chị em được
tụ họp và học tập trở thành nữ tu có lời khấn theo Giáo Luật. Nhưng công việc
xây cất mới bắt đầu, thì năm 1954 hiệp định Genève ra đời, phong trào di cư đưa
một số chị em nhà phước Lạng Sơn vào miền Nam. Tu viện Đa
Minh Lạng Sơn Xóm Mới, Gò Vấp, Gia Định, là nơi chị em dừng chân đầu tiên.
II. GIAI ĐỌAN ĐẦU TẠI MIỀN NAM (1954 – 1956)
Biến cố di
cư đã mang một ý nghĩa sâu xa đặc biệt trong ý hướng nhiệm mầu của Thiên Chúa
là làm nên một Hội Dòng thực thụ sau này.
Do sự chỉ đạo
của Đức cha André Jacq và sự hướng dẫn trực tiếp của cha chính Micae Nguyễn Khắc
Ngữ khi đưa chị em di cư, mà chính tại khu Lạng Sơn Xóm Mới này, chị em các nhà
phước hợp thành một cộng đoàn duy nhất là NHÀ PHƯỚC ĐA MINH LẠNG SƠN XÓM MỚI,
bà Catarina Trần Thị Khiêm làm Bề trên.
Ra đi mang
được những gì, chị em gom góp vào thành một quĩ chung, cùng sát cánh bên nhau,
nâng đỡ nhau sống đời tu trì ngay giữa những lạc lõng, bơ vơ, lạ lẫm nơi đất
khách quê người.
Hàng ngày chị em làm bánh, làm vườn, làm thuốc, chăn nuôi… Khi cuộc sống tạm ổn
định, chị em được cha chính Micae Nguyễn Khắc Ngữ giúp nâng cao trình độ văn
hóa. Ngài sắp xếp để các cha gốc Lạng Sơn dạy chị em học, luyện cho chị em đi
thi lấy bằng cấp để có thể đi dạy học cho các trẻ nhỏ tại các trường nhà xứ.
Từ đây, chị
em lại được sai đi các nơi để phục vụ theo nhu cầu địa phương. Tháng 7/1955 khi dinh điền Cái Sắn, Kiên Giang khai mở, dưới sự lãnh đạo
tinh thần của cha cố Giuse Vũ Toàn (gốc Lạng sơn), 10 chị em đã xuống phá cỏ ở
miền đất phèn đồng hoang này được 4 lô đất (12 mẫu tây). Chị Maria Nguyễn Thị
Kính là phụ trách cộng đoàn Kênh 3.
Cũng năm ấy,
theo lời yêu cầu của các cha dòng Đa Minh Lyon, Dòng đã đưa một số chị lên Tùng
Nghĩa – Đức Trọng; gồm có Chị Maria Nguyễn Thị Ro – Phụ trách, cùng với các chị:
Maria Nguyễn Thị Ngợi, chị Maria Nguyễn Thị Phan, chị Maria Nguyễn Thị Suy và
Maria Nguyễn Thị Nhường. Các chị đã cùng với người dân tộc gốc Cao Bằng, Lạng
sơn di cư đến phá rừng làm rẫy, thành lập cơ sở Tùng Nghĩa.
Năm 1956 Đức
cha André Jacq, bấy giờ là Đức cha phó địa phận Lạng sơn. Tuy vẫn còn ở lại đất
Bắc, nhưng Ngài vẫn quan tâm và ưu ái đối với chị em. Ngài đã truyền cho cha
chính Micae Nguyễn Khắc Ngữ dùng qũy của địa phận xây nhà cho chị em và trao
cho cha Đaminh Nguyễn Văn Lãng đứng trông coi xây cất Tu viện cho chị em. Đó là
một dãy nhà lầu, sàn gỗ; có thể nói đây là ngôi nhà nguy nga lớn nhất vùng lúc
đó.
PHẦN II: THỜI
KỲ CẢI TỔ VÀ PHÁT TRIỂN (1956 – 1978)
I.
GIAI ĐỌAN
CẢI TỔ (1956 -1962)
Năm 1955
Thánh Bộ Truyền Giáo chấp thuận để các cha dòng Đa Minh Manila cải tổ các nhà
phước Đa Minh miền Nam cho thành nữ tu có lời khấn theo Giáo Luật.
Ngày 02/02/1956
một số chị em nhà phước Đa Minh Lạng Sơn được cha chính Micae Nguyễn Khắc Ngữ gửi
về học tập tại Hố Nai – Biên Hòa với các chị em nhà phước Đa Minh của 4 địa phận
gốc: Bùi Chu, Thái Bình, Hải Phòng, Bắc Ninh.
Ngày 24/4/1957
nhà phước Lạng Sơn có 4 chị được tuyên khấn đầu tiên: Chị Catarina Trần Thị
Khiêm, Anna Nguyễn Thị Tuyết, Maria Trần Thị Ơn, Maria Nguyễn Thị Nhường.
Đầu năm 1958
dòng Đa Minh Bùi Chu Tam Hiệp rút khỏi Hố Nai, thì ngày 08/02/1958 chị em Lạng
Sơn cũng được Cha Chính giáo phận xin cho sát nhập tạm thời với dòng Đa Minh
Bùi Chu, Tam Hiệp, trong tinh thần và đường lối huấn luyện đào tạo Tập sinh để
được khấn, chờ ngày có hoàn cảnh sẽ thành lập hội dòng riêng. Vì thế, tuy nhập
vào Hội Dòng Bùi Chu ở Tam Hiệp, chị em Lạng Sơn vẫn độc lập về nhân sự và tài
chánh theo văn kiện mà Bề trên hai Giáo phận thỏa thuận. (Văn thư ngày 08/8/1958)
Hàng năm,
nhà Lạng Sơn gửi người vào Tập viện.
Năm 1958 nhà
Đa Minh Lạng Sơn đã đủ số nữ tu để thành lập Tu viện.
Ngày 02/2/1959,
Tu viện Đa Minh Lạng Sơn được chính thức thiết lập qua văn thư của Mẹ Bề trên
Dòng Đa Minh Bùi Chu Tam Hiệp.
Chị Catarina
Trần Thị Khiêm được cắt cử làm tu viện trưởng tiên khởi.
Tu viện là
trụ sở chính của Dòng, có trường Đệ Tử với 30 nữ tu; có những Tu sinh trẻ,
không phải là người nhà phước cũ.
Quả thực,
Thiên Chúa đã dùng những yếu tố thô sơ tầm thường để làm nên những điều huyền
diệu; đã biểu lộ quyền năng và tình thương của Người qua những biến cố!
II.
GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN (1962-1975)
Sau khi được
cải tổ thành nữ tu có lời khấn, chị em được sự quan tâm đặc biệt của quí Đức
cha, cha chính Micae Nguyễn Khắc Ngữ và quí cha gốc Lạng Sơn. Về tu đức, thần học,
chị em được quí cha huấn đức, dạy giáo lý; nhất là Đức Tổng Giám Mục Phaolô
Nguyễn Văn Bình chấp thuận cho cha Giuse Thân Văn Tường, (nguyên là Giám đốc Tiểu
Chủng viện Lạng Sơn di cư) du học nước ngòai về - đang làm phó Giám đốc ban Thần
học Đại Chủng viện Saigon - Ngài giúp đỡ, hướng dẫn và lo liệu để chị em trở
thành một Hội Dòng.
Về văn hóa,
chị em được gửi theo học tại các trường Trung và Đại học, các lớp bồi dưỡng sư
phạm, chuyên nghiệp…để lấy bằng cấp mở trường dạy học, đáp ứng nhu cầu của xã hội
và Giáo hội theo hướng đi của dòng là giáo dục thanh thiếu niên. Nếp sinh họat
của chị em đã có sự chuyển tiếp rõ ràng từ lao động chân tay sang lao động trí
thức.
Năm 1962,
khi Giáo phận mới Long Xuyên lập Tiểu chủng viện Á Thánh Phụng ở Châu Đốc, Dòng
đã cử Chị Agatha Nguyễn Thị Nghĩa và một số chị em đến giúp.
Tiếp theo, một
số cộng đoàn được thiết lập tại Gíao phận Long Xuyên:
-1962 - 1976: Cộng
đoàn Vàm Cống - Bề trên: Chị Maria Trần Thị Tịnh
-1963 - 1971: Cộng đoàn Sao Mai - Bề trên:
Chị Anna Nguyễn Thị Tuyết
-30/4/1963: Cộng đoàn Kênh Đ1 - Bề trên:
Chị Maria Trần Thị Mát
Sau biến cố
Mậu Thân năm 1968, qua sự cố vấn của Cha Giuse Thân Văn Tường, Đức Cha Micae
Nguyễn Khắc Ngữ đã giao trường Trung tiểu học Dũng Lạc và cơ sở Lưu học xá Dũng
Lạc (2 cơ sở này của địa phận Lạng Sơn) cho Hội Dòng. Bề trên Martha Nguyễn Thị
An - đại diện Hội Dòng đứng ra tiếp nhận và phân công Chị Têrêsa Đỗ Thị Minh
làm Hiệu trưởng Trường Trung tiểu học Dũng Lạc.
Đồng thời, tại
khu vực cơ sở Lưu Học xá Dũng Lạc, ngày 04/5/1969, Hội dòng đã thiết lập Cộng
đoàn Mỹ Sơn, mở Ký nhi viện và nhận học sinh Nội trú cấp I – II; Chị Maria Trần
Thị Ơn phụ trách cộng đoàn.
Năm 1972,
thiết lập Cộng đoàn Kiên Tân, Tân Hiệp, Kiên Giang, GP Long Xuyên (1972 – 1984)
Tháng 3/1973, khi cha Giuse Maria Phạm Quang Thiều đưa dân di cư từ miền trung
vào định cư tại Quốc lộ 20, cây số 130; Ngài đã xin chị em đến giúp. Hội Dòng
phân công Chị Catarina Hoàng Thị Yên, Chị Phạm Thị An và Võ Thị Quyền đến phục
vụ. Ngày 15/3/1973, thiết lập cộng đoàn Ngọc Lâm.
Vào những
năm từ 1968-1975, Dòng đang trên đà phát triển khả quan. Số chị em khấn trẻ gia
tăng đều đặn, nên ngày 12/7/1973 chị em đã được phép có Học viện riêng. Dòng đã
có 65 Nữ tu; 70 Đệ Tử; 10 cộng đòan, hiện diện trong 4 giáo phận Saigon, Long
xuyên, Đà Lạt, Xuân Lộc. Chị em điều hành trường Trung - Tiểu học Dũng Lạc cấp
I – III với 1600 học sinh; 3 trường Tiểu học, 3 ký túc xá.
Tại Tùng Nghĩa,
ngòai việc điều khiển trường Tiểu học Trinh Nữ vương (750 học sinh) giáo dục
con em người Việt gốc Nùng, Thổ…chị em còn giúp các cha Đa Minh Lyon họat động
truyền giáo ở khu Bắc Thái, đi sâu vào các làng Thượng để dạy giáo lý, phát thuốc,
trị bệnh…
III. THỜI
KỲ THỬ THÁCH: BIẾN CỐ 1975
Biến cố Giải
phóng Miền Nam 30/4/1975 đưa đến một hoàn cảnh mới: Không còn trường học, nhà Đệ
tử giải tán, đường học vấn của các chị em trẻ bị khép lại. Các em Đệ tử còn thiện
chí theo ơn gọi thì xếp bút nghiên để lao động, chăn nuôi, canh tác. Trước ngỡ ngàng và giao động của một số chị em trẻ, sự
phấn khích đỡ nâng của các chị cao niên đi trước, giúp họ đón nhận biến cố
trong niềm tin và phấn đấu vượt qua trong bình an.
Dòng thiết lập
thêm 3 cộng đòan tại Miền tây:
• Ngày
15/5/1975: Cộng đòan Cái Dầu - Bề trên: Chị
Têrêsa Nguyễn Thị Kim Ánh.
• Ngày
01/8/1975: Cộng đoàn Kênh Zêrô - Bề trên: Chị Têrêsa Trần Thị Hoa
• 1975 –
1994: Cộng đoàn Kênh G1 - Bề trên: Chị Têrêxa Nguyễn Thị
Thúy
Không còn cơ
sở dạy học, chị em rao giảng Tin Mừng bằng đời sống cầu nguyện và lao động chân
tay. Chỉ còn một số rất ít chị em tham gia trực tiếp việc giáo dục như: Chị Vũ
Thị Chín, Hiệu trưởng nhà trẻ (28/7/1975 đến 7/2005); Chị Đỗ Thị Minh, Nguyễn
Thị Mai Phương và Chị Hoàng Thị Yến sang làm giáo viên trường cấp II Phan Tây Hồ
(1975 – 1976); một số chị dạy mẫu giáo hoặc làm việc trong tổ hợp thêu, sản xuất
hàng xuất khẩu. Ở đâu và làm gì chị em cũng cố gắng thích nghi hội nhập với
hoàn cảnh và sống tinh thần Phúc Âm.
Ngày 08/01/1976,
nhà nước tiếp quản trường Trung tiểu học Dũng Lạc và đổi thành trường cấp I An
Nhơn, nay là trường Tiểu học Lê Thị Hồng Gấm.
Đặc biệt
trong thời gian sau ngày giải phóng, sự liên lạc của chị em với nhà trung ương
tại Tam Hiệp gặp trở ngại và khó khăn, nên ngày 20/3/1976, chị em Đa Minh Lạng
Sơn đã được phép thiết lập Tập viện của Dòng tại cộng đòan Kiên Tân và Tu Viện
Rosa Lima.
Thời gian từ
1962 đến 1980 là hai thời điểm thịnh và suy của lịch sử Hội dòng, dưới sự lãnh
đạo của Bề trên Anna Trần Thị Tâm. Dù thuận lợi hay không thuận lợi, Bề trên
Tâm cũng để lại trong lòng chị em một dấu ấn khó phai trong cung cách điều hành
chị em.
Thật vậy, từ
1975-1980 là giai đoạn thử thách với nhiều biến động và chuyển hướng! Nhân sự
giảm sút đáng kể và không có ơn gọi mới. Các trường học bị bàn giao. Các chương
trình học bị gián đoạn, chị em chuyển sang lao động chân tay, nhưng vẫn tích cực
phục vụ tại các giáo xứ. Trong bối cảnh đất nước và trước một tương lai vô định
với nhiều thử thách, cam go, Chị vẫn luôn tin vào Chúa, cậy vào ơn Chúa mà kiên
vững trong sứ vụ dẫn dắt Hội dòng cách bình an và êm xuôi, khiến chị em vững
tâm và kiên trì trong ơn gọi.
PHẦN III: THỜI KỲ CHÍNH THỨC LÀ HỘI DÒNG ĐA MINH LẠNG SƠN, THÁNH
HIỆU ĐỨC MẸ MÂN CÔI - GIÁO PHẬN
TP. HỒ CHÍ MINH (1978 - 2013)
I.
CHÍNH THỨC LÀ MỘT HỘI DÒNG ĐỘC LẬP
Tình thương
Thiên Chúa dẫn đưa thật diệu kỳ, Ngài đóng lối này Ngài lại khai mở nẻo khác, để
dẫn đưa đoàn con trên đường hiến dâng phục vụ.
Hoàn cảnh đất
nước sau ngày giải phóng đã đưa chị em Đa Minh Lạng Sơn đến một nhu cầu cần được
giải quyết là xin đứng thành một Hội dòng riêng, để tránh nhiều rắc rối khó
khăn về việc quản trị cũng như đời sống nội bộ. Ngày 01/11/1978 ban đại diện nữ
tu Lạng Sơn trình bầy nguyện vọng thành lập Hội dòng với cấp trên của hội dòng
Đa Minh Bùi Chu Tam Hiệp. Sau đó, Ban Đại diện đã lên xin Đức Tổng Giám Mục
Phaolô Nguyễn Văn Bình, cho Hội Dòng nữ Đa Minh Lạng Sơn được thành lập.
Ngày 08/12/1978,
Đức Tổng Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Bình, đã ký sắc lệnh thành lập HỘI DÒNG NỮ
ĐA MINH LẠNG SƠN thánh hiệu Đức Mẹ Mân Côi, Giáo phận Tp. Hồ Chí Minh
Ngày 18/01/1979 Đức Tổng Giám mục đã công bố thành lập Hội dòng tại nguyện đường
Tu viện Đa Minh Lạng Sơn, Xóm Mới.
Ngày 02/02/1980:
Khai mạc Tổng hội đầu tiên của Dòng.
Ngày 04/02/1980
Đức Tổng Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình chủ tọa buổi bầu Bề trên Hội dòng.
Chị Macta Nguyễn Thị An đắc cử Bề trên Tổng quyền tiên khởi, nhiệm kỳ 6 năm
(1980 – 1986)
Ban Tổng Cố vấn
I: Têrêsa Đỗ
Thị Minh
II: Catarina
Hoàng Thị Yên
III: Têrêsa
Nguyễn Thị Mai Phương
IV: Têrêsa
Nguyễn Thị Mỹ
Tổng hội I:
Tổng hội Lập pháp; vì thế, công việc chính yếu tiếp theo là Tổng hội duyệt xét,
biểu quyết những khoản luật Hiến pháp mới, Chỉ Nam, Tục lệ.
Ngày 13/4/1980
Đức Tổng Gíam mục Giáo phận Tp. HCM đã phê chuẩn Hiến pháp mới của Dòng. Một
nét thay đổi của Tổng hội về y phục dòng chị em Đa Minh Đức Mẹ Mân Côi - Lạng
sơn là khăn lúp trắng không bìa.
Ngày 19/6/1980
cha Bề trên Cả Vincentius de Couesnogle O.P ở Roma, gửi văn thư tuyên bố nhận Hội
dòng vào Gia đình Đa Minh với tất cả các đặc ân thiêng liêng. Tất cả là hồng
ân. Chị em toàn Hội dòng đã đón nhận kết quả của Tổng hội như mỗt lễ Hiện Xuống
mới, trong một thời đại mới. Ơn Chúa Thánh Thần ở đây chính là đưa chị em quay
về với căn tính đời tu, là từ bỏ những chỗ đứng quen thuộc để đón lấy những
cách nhìn, cách hiểu và hành động mới mà dấn bước theo Chúa Kitô, sống nghèo giữa
những người nghèo và phục vụ họ trong chia sẻ, yêu thương.
Nhưng dòng thời gian đã không êm đềm lặng lẽ trôi như cuộc sống âm thầm của chị
em, mà là đã có sóng gió nổi lên. Ngày 24/3/1984 một biến cố ập đến cho cộng
đoàn chị em ở Kiên Tân, Tân Hiệp, Kiên Giang: cả cộng đoàn chị em gồm 7 người đều
bị cơ quan chính quyền bắt giam giữ, lý do là bị ghép vào tội chính trị: tàng
trữ tài liệu phản cách mạng và đốt tài liệu. Sau 3 tuần bị tạm giam vô cớ, bảy
chị em được tha về với điều kiện phải bỏ đời tu trì, về với gia đình và phải hiến
cơ sở cho nhà nước địa phương. Hội dòng đã hết sức lo liệu xin các cơ quan thẩm
quyền cứu xét. Sau bao nhiêu đơn từ kêu cứu tới tận trung ương hầu như rơi vào
quên lãng, Hội dòng thà mất cơ sở chứ không để mất người chị em nào. Bảy chị đã
trở về tu viện nhà mẹ tại Xóm Mới tạm trú, với lý chứng duy nhất là đuổi chị em
về gia đình thì nơi đây là gia đình của chị em.
Còn cơ sở thì nhà nước vẫn trưng dụng cho đến ngày hôm nay.
Tổng Hội II
từ ngày 13/2 đến 24/2/1986: Tổng hội tập trung đào sâu Tinh Thần Dòng và Ơn gọi
Đa Minh Lạng Sơn. Chị Macta Nguyễn Thị An tái cử Bề trên Tổng quyền, nhiệm
kỳ 6 năm (1986 – 1992)
Ban Tổng Cố
vấn:
I: Têrêsa Đỗ
Thị Minh
II: Têrêsa Nguyễn Thị Mai Phương
III: Têrêsa
Trần Thị Hoa
IV: Catarina
Hoàng Thị Yên
Từ năm 1988,
bắt đầu đón nhận các chị em từ miền Bắc gia nhập Hội dòng. Đây là kế hoạch nhằm
chuẩn bị nhân sự để có thể tái lập các cộng đoàn phục vụ Giáo phận Lạng Sơn.
Với hai nhiệm kỳ từ năm 1980 – 1992 là hai khoảng thời gian của khép kín với
nhiều khó khăn, và mở ra với những chuyển biến của thời cuộc. Bề trên Tổng quyền
Macta Nguyễn Thị An đã lèo lái và hướng dẫn Hội dòng trong mọi nỗi thăng trầm ấy
với lòng tin tưởng, cậy trông.
Trong chiều
hướng mở ra của xã hội, cùng với hướng đi của Tổng Hội III là tái lập các cộng
đoàn miền Bắc, thì Chị sẵn sàng lên đường về Lạng Sơn khi vừa mãn nhiệm Bề trên
Tổng quyền. Điều đáng nêu gương và học hỏi nơi chị là dù bao năm trong chức vụ
Bề Trên, cai quản, điều hành nhưng khi trở về
hàng ngũ chị em là bề dưới, chị vẫn một mực khiêm tốn, vâng phục. Trong đời sống tâm linh, kinh nguyện, Chị là nữ tu mực thước. Luật dòng
lấy đời sống chứng tá là việc tông đồ đầu tiên của chị em, thì Chị đã thể hiện
một cách tuyệt vời.
Tổng Hội
III, Ngày 06/02/1992 – 16/02/1992
Chị Têrêxa Đỗ
Thị Minh đắc cử Bề trên Tổng quyền, nhiệm kỳ 6 năm 1992 – 1998.
Ban Tổng Cố
vấn:
I: Têrêsa
Nguyễn Thị Mỹ
II: Têrêsa
Trần Thị Hoa
III: Maria
Vũ Thị Chín
IV: Maria
Nguyễn Thị Thoa
Tổng hội III
đã dành nhiều thời gian trao đổi hướng về Sứ vụ Truyền giáo; đốt nóng chị em với
“nhiệt tâm lên đường truyền giáo”. Đồng thời, Tổng hội đồng ý việc soạn thảo Hiến
pháp chung với ba Dòng nữ Đa Minh Tam Hiệp, Thánh Tâm và Xuân Hiệp. Do đó,
trong khi chờ đợi bản Hiến pháp chung này, Tổng hội quyết định vẫn duy trì Hiến
pháp riêng của Hội Dòng Đa Minh Lạng Sơn hiện đang thử nghiệm.
II. GIAI
ĐỌAN MỞ CỬA - TÁI THIẾT (1990 - 2013)
1. Tại miền Nam
Từ năm 1990
để đáp ứng nhu cầu cấp bách của xã hội, nhà nước mở các lớp đào tạo Sư phạm Mầm
non cho các nữ tu, được dạy học và mở trường Mẫu giáo Dân lập. Chị em các nơi
mau chóng quay về với sứ vụ giáo dục của Dòng.
Tại nhà
Trung ương Xóm Mới, ngoài việc cho một số chị em ghi danh vào các trường đại học
mở Bán công, ngoại ngữ; ngay từ tháng 9/1989, Chị em đã bắt đầu nhận một số
cháu mẫu giáo và kèm trẻ cấp I. Chị Hoàng Thị Yến, chị Trương Thị Quý, Nguyễn
Thị Hòa… phụ trách các lớp mẫu giáo; đó chính là trường Mẫu giáo Mỹ Sơn hiện
nay. Ngày 20/7/1992, chị Đào Thị Hiến, chị Võ Thị Quyền nhận các cháu từ Lạng
Sơn vào và mở nhà Nội Trú; nay là Cộng đoàn Các Thánh Tử Đạo Dũng Lạc. Tiếp
theo là Chị Nguyễn Thị Bảo Ngọc nhận dạy kèm học sinh Cấp Một, nay là trường
Bán trú cấp I Lạng Sơn.
Trong chiều
hướng mở ra của đất nước, vào những năm chị Têrêsa Đỗ Thị Minh gánh vác công việc
lãnh đạo phục vụ Hội dòng, kế thừa sự nghiệp của các vị tiền bối, Hội dòng Đa
Minh Lạng Sơn cũng thay da đổi thịt. Hầu hết các khu nhà của Tu viện Trung ương
và cộng đoàn trong nhiều năm qua đều đã xuống cấp một cách trầm trọng. Chính
trong giai đọan này, các công trình đã lần lượt được xây dựng:
• Ngày 13/12/1996:
khánh thành dãy nhà lầu 3 tầng: nhà nguyện, Học viện, Thỉnh viện, hội trường,
nhà cơm.
• Ngày
16/10/1996: khánh thành Trường Mẫu giáo Mỹ Sơn.
• Ngày
13/12/1999: khánh thành khu nhà ban Tổng Quản trị, nhà Khấn và nhà Tập.
• Ngày
23/12/2000: khánh thành nhà Ngọc Lâm.
• Ngày 23/7/2001:
khánh thành nhà Kênh Đ1.
Tất cả là hồng
ân! Chúa đã biến đổi vũng nên đồi, để Nhà Chúa trở nên xứng đáng hơn và để con
cái Chúa có điều kiện tốt hơn trong cuộc sống yêu thương phục vụ.
Đặc biệt,
song song với những công cuộc xây dựng cơ sở vật chất, thông qua các Tổng hội,
Hội dòng đã chú tâm canh tân đời sống tinh thần, xây dựng căn nhà nội tâm, đổi
mới công tác đào tạo, canh tân đời sống cộng đoàn; từ đó nuôi dưỡng và phát xuất
ra một sức mạnh tông đồ truyền giáo.
Điểm nổi bật, Hội dòng còn lo đầu tư văn hóa kiến thức chuyên môn đạo, đời, bằng
cách cho chị em đi học ở nhiều nơi, nhiều lãnh vực, có những cánh chim đã bay
đi thật xa để thâu thái đạo đức, kiến thức, văn hóa nước người tại Mỹ, Pháp, Ý,
Thụy Sỹ, Philippines. Ngày 24/11/1996, chị Têrêxa Nguyễn Thị Mai Phương và chị
Maria Trương Thị Quý, là hai chị đầu tiên rời Việt Nam du học tại Ambrosio
University, California, USA. Ngày 20/9/2011 đã thành lập cộng đoàn Đức Mẹ Thăm
Viếng tại Oaklahoma City, USA.
Tổng hội IV
từ ngày 17/3/1998 đến 26/3/1998: Chị Têrêsa Đỗ Thị Minh tái đắc cử Bề trên Tổng
quyền nhiệm kỳ 4 năm 1998 – 2002.
Ban Tổng Cố
vấn:
I: Têrêsa
Nguyễn Thị Mỹ
II: Maria Vũ
Thị Chín
III: Maria
Bùi Thị Điểm
IV: Maria
Nguyễn Thị Thoa
Niềm thao thức
lớn nhất của Tổng hội này là “Đổi mới hoạt động Đào tạo” và nâng cao trình độ học
vấn của chị em; đồng thời, củng cố đời sống thánh hiến và phát huy tinh thần
trách nhiệm cộng đoàn. Tổng hội đã duyệt xét và chấp thuận thử nghiệm bản dự thảo
Chỉ Nam của Dòng.
Tổng hội V từ 17/02/2002 đến 01/3/2002. Chị Têrêxa Đỗ Thị Minh tái đắc cử Bề
trên Tổng quyền, NK 2002 – 2006.
TCV.I: Maria
Vũ Thị Chín
TCV.II:
Têrêsa Nguyễn Thị Mỹ
TCV.III:
Maria Hoàng Thị Yến
TCV.IV: Anna
Đồng Thị Nên
Ngày 06/9/2002,
Chị Anna Đồng Thị Nên được Chúa gọi về, chị Maria Nguyễn Thị Hòa đã thay chức vụ
Tổng CV. IV.
Chủ đề Tổng
hội V: “Canh tân đời sống cộng đoàn”. Tinh thần đời sống chung huynh đệ như men
muối, thúc đẩy chị em hăng say thi hành sứ vụ trong cánh đồng truyền giáo. Hội
dòng đặc biệt quan tâm và ưu tiên cho những địa điểm truyền giáo của dòng như
Tùng Nghĩa, Cái Dầu, Lạng Sơn. Đồng thời các chị em trẻ cũng được sai đi thực tập
tông đồ truyền giáo ở những vùng sâu vùng xa.
Trong nhiệt
tâm truyền giáo này, ngày 27/5/2002, chị Maria Nguyễn Thị Sao đặt chân đến vùng
đảo Phú Quốc; đến ngày 09/02/2003 thì cộng đoàn Phú Quốc được chính thức thành
lập.
Ngày 20/5/2003 Hội dòng thành lập cơ sở truyền giáo tại làng dân tộc K’Nai, huyện
Đức Trọng, Lâm Đồng; Chị Maria Nguyễn Thị Ơn phụ trách.
Ngày
8/12/2003: Hội dòng long trọng mừng kỷ niệm 25 năm (1878 – 2003) thành lập Hội
dòng nữ Đa Minh Lạng Sơn thánh hiệu Đức Mẹ Mân Côi, Giáo phận Tp. Hồ Chí Minh
và 85 năm khai sinh Nhà phước đầu tiên của Dòng tại Cửa Nam, Lạng Sơn năm 1918.
Thánh lễ Tạ
ơn mừng Ngân Khánh Hội dòng do Đức cha Phụ tá Giuse Vũ Duy Thống - đại diện Đức
Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, đã chủ tế lúc 9g30 tại thánh đường giáo xứ
Lạng Sơn với hơn 80 cha đồng tế và khoảng 1000 giáo dân tham dự.
Trước lễ,
lúc 8giờ có sinh hoạt truyền thống dòng được trình diễn tại hội trường trong bầu
khí trang nghiêm và cảm động. Nổi bật lên những nét độc đáo của đất mẹ Lạng
Sơn, của sứ vụ truyền giáo trên mảnh đất quê hương này, nơi mà, “cái nôi nhà
phước Đa Minh Lạng Sơn” được thành lập từ năm 1918. Dịp này, Hội dòng cũng thực
hiện một tập kỷ yếu và một phòng truyền thống khá quy mô, ghi dấu một chặng đường
dài trong ẩn khuất và 25 năm chính thức công khai. Dư âm của ngày lễ mừng đã
cho chị em nhiều phấn khởi, nhiều niềm vui, vì được góp mặt với các hội dòng
khác trên hành trình đi lên của lịch sử.
Mái Ấm Hoa Hồng
Củ Chi: Khởi đi từ những trăn trở, bức xúc khi chứng kiến những cảnh sống thiếu
thốn, khổ cực, cô đơn, buồn tủi của những cụ già neo đơn, những cháu bé mồ côi
khuyết tật mà chị em đối diện hằng ngày khi phục vụ tại các nơi có cộng đoàn của
Dòng hiện diện; ngày 01/7/2004, Hội dòng đã thành lập cơ sở mang tên “Mái Ấm
Hoa Hồng” tại Củ Chi, Tp.HCM, thuộc Giáo phận Phú Cường và thiết lập cộng đoàn
chị em trực tiếp phục vụ Mái ấm. Chị Giám đốc Mái ấm Têrêsa Nguyễn Thị Mỹ cũng
là Bề trên Cộng đoàn Củ Chi.
Tổng hội VI:
từ ngày 05/02/2006 đến 18/02/2006 với chủ đề “Cộng đoàn sống Lời Chúa”. Một lần
nữa, Chị Têrêxa Đỗ Thị Minh tái đắc cử Bề trên Tổng quyền lần thứ 4, nhiệm kỳ
2006 – 2010.
Ban Tổng Cố vấn:
I: Maria Bùi
Thị Điểm
II: Maria
Hoàng Thị Yến
III: Maria
Nguyễn Thị Thoa
IV: Maria Vũ
Thị Ngọc Thảo
Cùng với
Giáo hội, chị em sống Lời để được Lời hướng dẫn trung thành với linh đạo của
Dòng và cùng nhau lên đường loan báo Tin Vui đến mọi biên cương.
Ngày
30/8/2008: khánh thành trường Mầm non Bông Hồng - Tùng Nghĩa. Trường MN Bông Hồng
chính là trường tiểu học Trinh Nữ Vương của Dòng, được nhà nước trao trả lại
sau hơn 30 năm tiếp quản.
Ngày
07/02/2010: khánh thành Trường Mẫu giáo Họa Mi, thuộc Cộng đoàn Cái Dầu, xã
Bình Long, huyện Châu Phú, An Giang.
Từ năm 2004,
chị em du học lần lượt trở về phục vụ: Chị Maria Bùi Thị Điểm (2004), Chị Maria
Nguyễn Thị Bảo Ngọc (2007); Chị Maria Nguyễn Thị Kim Oanh (2009); Chị Maria Đỗ
Thị Yến (2009) và chị Maria Nguyễn Thị Ngọc (2011).
Tổng hội VII:
từ 10/6/2010 đến 20/6/2010. Chủ đề: “Canh Tân Hiệp Nhất trong Đức KiTô”. Tổng hội diễn ra trong Năm Thánh Giáo Hội Việt Nam với những giáo huấn
của Giáo hội về ba chiều kích: Mầu Nhiệm - Hiệp Thông - Sứ Vụ, là định hướng
giúp chị em thực thi chủ đề của Tổng hội cách rộng mở viên mãn hơn trong đời sống
hiến dâng và trong lòng Giáo hội Việt Nam.
Tổng hội VII
cũng đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử của Hội dòng với sự đắc cử của tân Bề
trên Tổng quyền Maria Bùi Thị Điểm, Nk. 2010-2014.
Ban Tổng Cố
vấn với những khuôn mặt mới:
I: Têrêsa Đỗ
Thị Minh
II: Maria
Nguyễn Thị Bảo Ngọc
III: Maria Đỗ
Thị Yến
IV: Maria
Nguyễn Thị Kim Oanh
Cách riêng,
với nguyên Bề trên Tổng quyền Têrêsa Đỗ Thị Minh, người đã dẫn dắt hội dòng suốt
20 năm qua, với bao công sức lao nhọc, phấn đấu để đưa Hội dòng đi lên với
thành quả như ngày hôm nay. Đến Tổng hội này, có thể nói là một điểm dừng trên
hành trình của chị, vì gánh nặng đã có người kề vai vác đỡ. Dừng để rồi tiếp bước
chứ không an nghỉ, bởi lòng nhiệt tâm lo cho Hội dòng của chị vẫn canh cánh, và
sự tín nhiệm của chị em đối với chị vẫn cao độ. Chị tiếp bước trong khiêm tốn của
chức vụ Phụ tá, để nâng đỡ người kế nhiệm, thật cảm phục và đáng quý thay!
Trong nhiệm kỳ mới này, Hội dòng tiếp tục đầu tư nâng cấp xây dựng các cơ sở:
• Tu xá Đa
Minh và Trường Mẫu giáo Misa Phú Quốc: khánh thành ngày 17/12/2011.
• Nhà nguyện
Tu xá K’Nai - Đức Trọng: khánh thành ngày 19/5/2012
• Nhà Sinh
hoạt của Tu viện Đa Minh Lạng Sơn: khánh thành ngày 22/6/2013.
• Ngày 05/7/2012:
chị em hiện diện phục vụ giáo xứ Thánh Mẫu, ấp Tam Bung, xã Phú Cường, Định
Quán, Đồng Nai – thuộc Giáo phận Xuân Lộc. Tại đây, Hội dòng đã khởi công xây dựng
mới trường Mẫu giáo Vàng Anh.
• Nhà Nội
trú Tu xá Đa Minh Kênh Zêrô đã được xây dựng mới và hiện đang tiếp tục sửa chữa
khu nhà cộng đoàn.
2. Tại miền Bắc (1986 - 2013)
Sau 1975, thống
nhất đất nước, những con đường bằng đất, bằng đá đã mở ra nối liền Bắc – Nam.
Nhưng những con đường tinh thần, đường đem Tin Mừng hầu như khép kín!
Chị em Đa
Minh Lạng Sơn nhớ lại cuộc ra đi để trung thành với con đường theo Chúa của
mình vào thời điểm lịch sử năm 1954 là giả thiết có sự trở về! Biết rằng không
có cuộc trở về nào là dễ dàng cả! nhất là sự trở về với căn tính của mình, với
sứ mệnh của Đấng đã gọi và chọn mình. Nhưng với ơn Chúa chị em quyết tâm trở về,
trở về với nguồn cội, trở về với cái nôi nơi mình được hình thành. Trên hết, trở
về với tâm tình tri ân các bậc tiền bối và trách nhiệm với các thế hệ tiếp nối.
Thế là từ Tổng
Hội II (1986-1992) một số chị em đã từng ở nhà Phước Thất Khê lên đường trở về
trong quả cảm, dò dẫm… Chị em cứ kiên trì đi đi về về hoặc nấn ná tạm trú ngắn
hạn với mục đích tìm kiếm ơn gọi địa phương mới, mong có kế hoạch lâu dài về
nhân sự để phục vụ Giáo phận. Hội dòng cũng đã cắm người ở những nơi trước kia
có Nhà Phước như Lộc Bình, Bản Lìm, Cửa Nam, Đồng Đăng, Thất Khê, Cao Bằng,
nhưng thực khó khăn về tạm trú!
Thiên Chúa
có đường lối của Ngài, ở những thời điểm mà Ngài muốn.
Năm 1988
Ngài đã cho đất mẹ nảy mầm với ba ơn gọi đầu tiên do Đức cha Vinh Sơn Phaolô Phạm
Văn Dụ quan tâm hướng dẫn, là chị Maria Hứa Thanh Mai ở Đồng Đăng, chị Têrêsa
Nguyễn Thị Hồng và chị Maria Phạm Thị Thu Hà ở Thất Khê. Các chị được đào tạo,
huấn luyện trong Hội dòng tại miền Nam và ngày 09.8.1992 các chị đã tuyên khấn
lần đầu. Vì nhu cầu công tác truyền giáo và phục vụ giáo phận, Đức cha đã xin
cho chị Maria Hứa Thanh Mai được trở về giáo phận ngay, giúp ở Đồng Đăng.
Dần dần số
ơn gọi ở giáo phận nhà cũng như một số giáo phận miền Bắc mỗi năm tăng thêm.
Dưới thời Đức Tổng Giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt coi sóc Giáo phận, Hội Dòng
luôn ưu tiên gởi chị em về phục vụ Giáo phận và tiếp tục chuẩn bị nhân sự để có
thể tái lập các cộng đoàn phục vụ giáo phận mẹ Lạng Sơn.
Đặc biệt từ
khi Đức Cha Giuse Đặng Đức Ngân về coi sóc Giáo phận, Ngài đã khuyến khích Hội
dòng gởi thêm nhân sự và tạo điều kiện để chị em phục vụ.
Hiện nay chị
em đang phục vụ tại Tòa Giám Mục Lạng Sơn - Đồng Đăng - Thất Khê - Bó Tờ và Cao
Bằng. Ngoài ra, chị em lưu động giúp một số Giáo xứ, Giáo họ khi có nhu cầu,
cùng nhau thi hành sứ vụ truyền giáo và bác ái xã hội…
Các cơ sở tại
miền Bắc cũng được Hội dòng đầu tư xây dựng:
• Ngày
31/01/2009: khánh thành Mái ấm Tình thương Vinh Sơn, Cộng đoàn Thất Khê, Huyện
Tràng Định, Lạng Sơn; chăm sóc các cháu khuyết tật bại não.
• Ngày
31/5/2010: cơ sở Phụ xá Cao Bằng – Lạng Sơn.
• Ngày
18/7/2012: Tu xá Đồng Đăng - Lạng Sơn.
Sau bao
nhiêu năm xa cách, bao mong mỏi đợi chờ! Đất mẹ đã dành cho những người con Đa
Minh Lạng Sơn một lối về, dù chỉ là một lối về khiêm tốn nhất. Lòng mẹ vẫn bao
la, đất mẹ vẫn hiền hòa. Từ khe đá vẫn trổ hoa.
Ước gì chị
em Đa Minh Lạng Sơn hôm nay, trong giới hạn của mình, biết gắn bó với nhau, làm
cho cánh đồng Lạng Sơn đã thắm máu các vị thừa sai và cả máu chị em mình, trổ
sinh nhiều hoa trái, những hoa trái tình thương nở rộ trên khắp giải đất quê
hương yêu dấu.
Hội dòng Đa
Minh Lạng Sơn (năm 2018) hiện có 21 cộng đoàn phục vụ trong 7 giáo phận:
• Giáo phận Lạng Sơn: 4 cộng đoàn
• Giáo phận
TP. Hồ Chí Minh: 4 cộng đoàn
• Giáo phận
Đà Lạt: 2 cộng đoàn
• Giáo phận
Xuân Lộc: 2 cộng đoàn
• Giáo phận
Long Xuyên: 5 Cộng đoàn
• Giáo phận
Phú Cường: 1 cộng đoàn
• Giáo phận
Phan Thiết: 1 cộng đoàn
• Giáo phận
Oaklahoma City – USA: 1 cộng đoàn
• Giáo phận
Perth: 1 cộng đoàn
• Du học
Roma: 2 chị
• Du học Mỹ:
3 chị
TỔNG SỐ CHỊ EM: 361
Số Nữ tu:
202 Khấn trọn; 98 Khấn Tạm.
Tập Sinh:
09; Tiền Tập sinh: 11; Thỉnh sinh: 41
(số liệu
ngày 15/9/2017)
Nhìn lại quá trình lịch sử, chị em Đa Minh Lạng Sơn ý thức rằng: Hội dòng sống
còn và phát triển cho đến ngày hôm nay, là do công lao của quý Đức Cha, quý Cha
Dòng Đa Minh Lyon – Pháp; quý Cha triều gốc Lạng Sơn và quý cha Đa Minh Việt
Nam, đã dìu dắt, hướng dẫn chị em qua những biến cố thăng trầm của lịch sử. Bên
cạnh các ngài là những chị em đi trước, đã có công gây dựng cho Hội dòng trong
hy sinh gian khổ, để có một sự nghiệp vững bền tới ngày nay. Ngoài ra, chị em
cũng không quên công ơn của quí Mẹ Bề trên và các chị thuộc Hội dòng Đa Minh
Tam Hiệp, đã vì Chúa, vì Giáo hội, vì các linh hồn, tận tình hướng dẫn dìu dắt
chị em trong những năm mới cải tổ.
Sống linh đạo Đa Minh:
NÓI VỚI CHÚA – NÓI VỀ CHÚA
Hoặc “CHIÊM NIỆM VÀ TRUYỀN THÔNG”,
Chia sẻ cho tha nhân những gì mình đã chiêm niệm
với sứ vụ đặc biệt của Hội dòng Đa Minh Lạng Sơn là
“LOAN BÁO TIN MỪNG CHO NGƯỜI NGHÈO KHÓ”
xuyên suốt
giòng thời gian gần 100 năm, từ rừng Lạng Sơn miền Bắc đến miền đảo Phú Quốc trời
Nam, những họat động của chị em đa số tập trung ở các xứ truyền giáo hoặc xứ đạo
miền quê. Đơn sơ, giản dị, hội nhập vào cuộc sống người lao động địa phương để
khai hóa dân trí, gieo rắc tình thương và giáo dục niềm tin. Cho đi cái mình
có. Làm điều mình có thể với một con tim yêu mến và hiến dâng trọn vẹn. Thật bé
nhỏ và khiêm tốn! Chị em Đa Minh Lạng Sơn trong hình thành và phát triển, đến
hôm nay Dòng đã có một chỗ đứng trong lòng Giáo hội.
Hội dòng Đa Minh Lạng Sơn đang cùng nhịp bước với các hội dòng trong lòng Giáo
hội Việt Nam và cùng với Giáo hội toàn cầu dấn thân “PHỤC VỤ ƠN CỨU ĐỘ”.